ĐÀO TRUNG ĐẠO

(118)

Edmond Jabès

Kỳ 1, Kỳ 2, Kỳ 3, Kỳ 4, Kỳ 5, Kỳ 6, Kỳ 7, Kỳ 8, Kỳ 9, Kỳ 10, Kỳ 11, Kỳ 12, Kỳ 13, Kỳ 14, Kỳ 15, Kỳ 16, Kỳ 17, Kỳ 18, Kỳ 19, Kỳ 20, Kỳ 21, Kỳ 22, Kỳ 23, Kỳ 24, Kỳ 25, Kỳ 26, Kỳ 27, Kỳ 28, Kỳ 29, Kỳ 30, Kỳ 31, Kỳ 32, Kỳ 33, Kỳ 34, Kỳ 35, Kỳ 36, Kỳ 37, Kỳ 38, Kỳ 39, Kỳ 40, Kỳ 41, Kỳ 42, Kỳ 43, Kỳ 44, Kỳ 45, Kỳ 46, Kỳ 47, Kỳ 48, Kỳ 49, Kỳ 50, Kỳ 51, Kỳ 52, Kỳ 53, Kỳ 54, Kỳ 55, Kỳ 56, Kỳ 57, Kỳ 58, Kỳ 59, Kỳ 60, Kỳ 61, Kỳ 62, Kỳ 63, Kỳ 64, Kỳ 65, Kỳ 66, Kỳ 67, Kỳ 68, Kỳ 68,Kỳ 66, Kỳ 69, Kỳ 70, Kỳ 71, Kỳ 72, Kỳ 73, Kỳ 74, Kỳ 75, Kỳ 76, Kỳ 77, Kỳ 78, Kỳ 79, Kỳ 80, Kỳ 81, Kỳ 82, Kỳ 83, Kỳ 84, Kỳ 85, Kỳ 86, Kỳ 87, Kỳ 88, Kỳ 89, Kỳ 90, Kỳ 91, Kỳ 92, Kỳ 93, Kỳ 94, Kỳ 95, Kỳ 96, Kỳ 97, Kỳ 98, Kỳ 99, Kỳ 100, Kỳ 101, Kỳ 102, Kỳ 103, Kỳ 104, Kỳ 105, Kỳ 106, Kỳ 107, Kỳ 108, Kỳ 109, Kỳ 110, Kỳ 111, Kỳ 112, Kỳ 113, Kỳ 114, Kỳ 115, Kỳ 116, Kỳ 117, Kỳ 118,

 

Kể từ tập thơ Trois filles de mon quartier (1947-1948) Edmond Jabès tuy có nghiêng về thi pháp đoạn rời (Poétique de fragment), nhưng chỉ từ Le Lives des Questions (1963) trở đi Jabès mới thực sự sử dụng lối viết đoạn rời (fragmentation). Điều này cho thấy khi sáng Pháp cư ngụ Jabès đă chịu ảnh hưởng của Maurice Blanchot và René Char vốn được Jabès ngưỡng mộ. Như trích dẫn ở phần trên:

 Ma demeure est détruite; mon livre, en cendres.

Dans ces cendres, je trace les lignes.

Dans ces lignes, je mets des mots d’exil.  

(Nơi cư ngụ của tôi đă bị phá hủy: sách của tôi, thành tro tàn.

Trong những tro tàn này, tôi vạch những đường.

Parcours (1985)

Cho thấy ảnh hưởng của Blanchot: trong bài này Jabès nói về viết/vạch (tracer) những ḍng trong tro tàn để đặt trên đó những từ của lưu đầy Jabès gián tiếp qui chiếu tới bài Traces của Blanchot. Trong một bài viết trước bài Traces Blanchot diễn giải về đoạn rời, về ư nghĩa của nét vạch trong Quyển Sách Câu Hỏi  của Jabès: “Trong toàn bộ những đoạn rời, những tư tưởng, những đối thoại, những lời nguyện cầu, những chuyển vận tự sự, những lời rải tác tôi t́m thấy tác động của những lực làm đứt rời, thế nên, do những lực này cái được đề nghị với văn tự (lời thầm th́ không dứt, cái không ngưng lại), phải được hoàn tất trong chính hành vi làm đứt đoạn. Nhưng ở đây, trong Quyển Sách Câu Hỏi – chính đề tựa quyển sách này nói lên sự bất an và sức mạnh đớn đau của nó –, sự đứt rời không những chỉ được đánh dấu bởi việc làm phân đoạn thi ca thành những cấp độ của ư nghĩa, nhưng sự c̣n bị tra hỏi và chịu đựng đớn đau, rồi được nắm bắt lại và làm cho cất tiếng, luôn luôn hai lần và mỗi lần lại được nhân gấp hai lên: trong lịch sử và trong văn tự bên lề lịch sử. Trong lịch sử tâm điểm của sự đứt rời có tên là Do thái giáo. Trong văn tự đó là sự khó khăn của thi sĩ, của người muốn nói một cách trung thực –, nhưng điều này cũng lại là công lư khó khăn, công lư của qui luật Do thái, lời được ghi xuống, người ta không thể coi nhẹ, và nó là tinh thần, bởi nó là gánh nặng và sự mỏi mệt của chữ.”[22]

Blanchot cho rằng “Đoạn rời” (Fragment) là danh từ nhưng lại có sức mạnh của động từ tuy sức mạnh này không có mặt trong những từ như vết nứt (brisure), bị vỡ nhưng không có mảnh vỡ (brisées sans débris), khi nói ngưng/cắt ngang (interruption) lời nói chốc lát nhưng sẽ lại tiếp tục và việc ngưng này cũng lại kích động sự tiếp tục. “Kẻ nói đoạn rời không phải chỉ nói về việc làm đứt rời một thực tại đă hiện hữu, cũng không phải nói về khoảnh khắc của một toàn thể vị lai.”[23] Về mặt luận lư điều này vấp phải sự thiết yếu cơ bản: khi nói “đoạn rời” có nghĩa đă ngầm hàm chứa “toàn thể” đă có trước hay sẽ sau nó. Thế nhưng, trong sự bạo động của việc làm đứt rời này có một tương quan không như kiểu trên, tương quan này ít ra cũng có thể coi như một sự hứa hẹn hay một bổn phận. Blanchot cho thấy đó là kinh nghiệm đọc bài thơ Poème pulvérisé của René Char: chấp nhận bẻ gập sự chờ đợi của ngôn ngữ xuống một kinh nghiệm phân mảnh, chia phần (expérience morcellaire) nào đó, nghĩa là chấp nhận sự chia cách (séparation) và sự bất liên tục. Blanchot minh ư tưởng này bằng thí dụ sự chuyển/thay đổi môi trường sinh sống (dépaysement): “Sự chuyển đổi không chỉ có nghĩa việc mất đi xứ sở, nhưng là một cách thế cư ngụ công chính hơn, tới ở một nơi không do thói quen; lưu đầy, đó chính là sự xác quyết một tương quan mới với Cơi Ngoài. Do vậy, bài thơ đoạn rời là một bài thơ không phải là chưa làm xong, nhưng là mở ra một kiểu hoàn tất khác, trong sự tra hỏi hay trong một xác quyết nào đó không thể được thu giảm vào nhất thể tính.”[23]

Gần một năm sau Blanchot trở lại khái niệm ngưng/cắt lời (interruption): “Ngưng lời là thiết yếu cho mọi sự tiếp tục của lời nói; việc thỉnh thoảng ngưng lại làm cho sự trở/diên thành khả hữu; sự bất liên tục làm cho sự liên tục của chờ đợi chắc chắn xảy ra. Do đó hẳn ta sẽ rút ra nhiều điều. Nhưng, tạm thời, tôi muốn chứng minh rằng sự chốc chốc ngưng lại này chính nó làm cho diễn ngôn trở thành đối thoại, nghĩa là ngưng-đường đi, hiện ra theo hai chiều hướng khác nhau.”[24]

 

Blanchot phân biệt hai chiều hương này: trường hợp thứ nhất thời khoảng-ngưng lại tương tự sự ngừng nghỉ thông thường để cho những người đối thoại “lần lượt” nói, và trong trường hơp này sự bất liên tục là thiết yếu, bởi nó cho phép sự trao đổi; nhưng sự thiết yếu này chỉ tương đối thôi vi cái nó nhắm tới dù sớm hay muộn chính là việc khẳng định chân lư hợp nhất (verité unitaire) trong đó diễn ngôn không ngừng làm sao cho mạch lạc sẽ lẫn vào mặt trái là sự im lặng. Thế nên, sự ngắt ngưng (rupture) này cũng vẫn cứ dự phần vào lời nói chung của những người tham dự đối thoại.Và nó chính là “Hơi thở của diễn ngôn” (la respiration du discours). Chiều hướng thứ hai bí ẩn và nghiêm trọng hơn nhiều: sự ngưng lại đem vào sự chờ/ngóng đợi giữa khoảng cách của những người đối thoại và khoảng cách này không thể thu giảm được. Sự khác biệt của hai chiều hướng, kinh nghiệm này tương ứng với hai cách kinh nghiệm sử dụng từ, một kinh nghiệm có tính chất biện chứng v́ lời nói trong diễn ngôn là lời của vũ trụ (parole d’univers) có chiều hướng nhắm đến sự đơn nhất, kinh nghiệm kia th́ không v́ đó là lời của viết (parole d’écriture), của văn tự chứa đựng một tương quan với sự vô tận và sự lạ lẫm. Tuy nhiên sự khác biệt căn cốt này lại thường rất mơ hồ v́ khi hai người đối thoại sự im lặng cho phép họ lần lượt cất tiếng lại chỉ là việc lần lượt ngưng nói đó chỉ là sự ngưng lại ở cấp độ thứ nhất nhưng việc lần lượt nói này tự nó có thể đă và cũng nằm trong sự ngưng lại qua đó cho thấy sự có mặt một cái không/chưa biết (l’inconnu). Tệ hại hơn nữa là khi quyền năng cất lời bị chặn lại người đối thoại lại chẳng biết một cách chính xác đó là hành động của ngắt đứt nào, sự ngắt ngừng để trao đổi hay ngắt ngừng để treo lửng lời để rồi lại sẽ dùng lời này ở một cấp độ khác hay đó chính là sự ngưng đứt có tính chất tiêu cực chẳng hạn ngưng lại để thở, v́ mệt mỏi, bất hạnh, sự bất tận của ngôn ngữ, hay v́ đau đớn.

Trong Le Livre des Marges phần viết về Jacques Derrida tác giả bài Edmond Jabès et la question du livre Jabès đă dùng lối phân tích “hủy tạo” về sự làm đứt đoạn (fragmentation) như sau: “Chính là trong làm đứt đoạn mà tính chất toàn thể vô tận được đọc. Cũng vậy phải chăng luôn luôn trong tương quan với một toàn thể tính tạo ra do ghép mảnh mà chúng ta chạm mặt đoạn rời; việc này h́nh dung ra, mỗi lần, cái toàn thể tính trong cái phần nhận được, được công nhận và, đồng thời, bởi sự thách đố được làm mới nguồn gốc của nó, trở thành, trong khi thay thế cho nguồn gốc, chính nó là nguồn gốc của mọi nguồn gốc khả hữu, có thể khám phá được.[25] Theo Jabès cách thức hủy tạo phong phú tác hoạt theo cả hai chiều từ toàn thể để mở/khui (déboucher) ra trên đoạn rời cực đại và đoạn rời cực tiểu mục đích, trong khi tự hủy dần dần trong cái hư vô của đoạn rời có ưu thế, để tái lập, thông qua việc tự xóa bỏ của nó, cái toàn thể tính này. Trong diễn tŕnh này con mắt lả kẻ dẫn đường, là đèn pha rọi sáng: cái bất kiến (l’invisible), niềm im lặng ẩn dấu do đó được nh́n thấy trong cái khả kiến, cái có thể được nh́n thấy.

Trong bài Book of the Dead: An Interview with Edmond Jabès khi được Paul Auster hỏi: “Cách tŕnh bày bản in (topographical layout) những sách của ông là một trong những thứ làm người đọc chú ư nhiều nhất...Nó sắp đặt nhịp của tác phẩm và củng cố cảm nhận về việc làm đoạn rời ông đă tạo ra trong chính bản văn. Những chuyển vị này có được thực hiện một cách có hệ thống không hay chúng ít nhiều là vô thức?” Edmond Jabès trả lời: “Đôi khi nó tự nhiên xảy ra, nhưng hầu hết nó đ̣i hỏi công việc thực sự. Không phải là nó được suy nghĩ từ trước, nhưng trong khi bản viết tiến triển, th́ có những thứ đến từ rất xa, như thể từ một quyển sách khác, hay từ quyển sách nằm trong quyển sách...và đó là những thứ được in chữ nghiêng. Những đoạn dài hơn nói chung thuộc về chính quyển sách, thuộc về quyển sách được viết ra, và chúng có ở đấy để tiếp nối câu chuyện, hay tiếp tục việc tra hỏi...Nhưng những chỗ in nghiêng cũng là một quyển sách đang được tạo ra cùng lúc với quyển sách kia đang được tạo ra. Luôn luôn có một quyển sách mang một quyển sách mang một quyển sách...C̣n về việc phân bổ những đoạn dài và đoạn ngắn, th́ đó là vấn đề nhịp điệu (question of rhythm). Với tôi điều này hết sức quan trọng. Một câu dài, một câu ca, là một cái ǵ đó có một hơi mạnh, nó cho phép bạn thở thật sâu. Những lúc khác khi tác phẩm gập lại trên chính nó, và hơi thở trở thành ngắn hơn, thở trở thành khó khăn hơn. Người ta bảo rằng Nietszche đă viết những đoạn rời, thí dụ vậy, v́ ông ta bị chứng nhức đầu nặng khiến ông ta không thể nào luôn viết dài. Dù cho chuyện này đúng hay không, tôi thật sự tin rằng một nhà văn làm việc với thân thể của ḿnh. Bạn sống với thân thể của ḿnh, và quyển sách trên hết thảy là quyển sách của thân thể bạn. Trong trường hợp tôi, đoạn rời – cái bạn có thể gọi là câu văn trần trụi – đến từ một nhu cầu vây quanh những từ bằng màu trắng để cho chúng thở. Như bạn biết, tôi bị bệnh xuyễn, và đôi khi thở với tôi thật khó khăn. Bằng cách cho các từ thở, tôi thường cảm thấy tôi tự giúp ḿnh thở.”

­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­_________________________________________

[22] Maurice Blanchot, Le Livre des Questions, chương XXIV Traces, trong L’Amitié (1971) trang 252: Dans l’ensemble de fragments, de pensées, de dialogues, d’invocations, de mouvements narratifs, paroles errantes qui constituent le détour d’un seul poème, je retouve à l’œuvre les puissances d’interruption par lesquelles ce qui se propose à l’écriture (le murmure initerrompu, cela qui ne s’arrête pas), doit s’inscrire en s’interrompant. Mais ici, dans Le Livre des Question – de là son insecutité et sa force douloureuse –, la rupture  est non seulement marquée par la fragmentation poétique à ses différents niveaux de sens, mais interrogée et subie, puis ressaisie et rendue parlante, toujours deux fois et chaque fois redoublée: dans l’histoire et dans l’écriture en marge de l’histoire. Dans l’histoire le centre de la rupture s’appelle le judaïsme. Dans cette écriture qui est la difficulté du poète, de l’homme qui veut parler juste, mais qui est aussi la justice difficile, celle de la loi juive, la parole inscrite avec laquelle on ne joue pas, et qui est esprit parce qu’elle est le fardeau et la fatigue de la lettre.

Blanchot lần đầu đăng Traces trên Nouvelle Revue Française số 129, tháng 9, 1963 (theo tài liệu của Christopher Biden trong Maurice Blanchot, Partenaire Invisible trang 607). Trong bài này Blanchot nói về quyển Alberto Giacometti, textes pour une approche của Jacques Dupin, quyển La Veille của Roger Laporte, và quyển Livre des Questions của Edmond Jabès. Blanchot cũng cho biết tựa đề bài viết Traces mượn từ tựa đề quyển Spuren của Ernst Bloch xuất bản 30 năm trước và mới được dịch sang Pháp văn. Spuren có nghĩa dấu vết/tích, đường băng (như đường băng thu âm) nơi những tiếng nói kề cận nhưng không trộn lẫn nhau, là những từ không dính liền, những xác quyết, không những đứt đoạn mà c̣n có liên hệ tới một kinh nghiệm của sự đứt rời. Ghi chú này cũng chỉ ra ảnh hưởng của Blanchot trên Derrida.

[23]Maurice Blanchot, Parole de fragment trong L’Entretien infini trang 452: Le dépaysement ne signifie pas seulement la perte du pays, mais une manière plus authentique de résider, d’habiter sans habitude; l’exil, c’est l’affirmation d’une nouvelle relation avec le Dehors. Ainsi, le poème fragmenté est un poème non pas inaccompli, mais ouvrant un autre mode d’accomplissement ou dans quelque affirmation irréductible à l’unité.

[24] Maurice Blanchot, L’Interruption trong L’Entretien infini trang 107: L’interruption est nécessaire à toute suite de paroles; l’intermittence rend possible le devenir; la discontinuité assure la continuité de l’entente. D’où il y aurait certainement beaucoup à conclure. Mais, pour l’instant, je voudrais montrer que cette intermittence par laquelle le discours devient dialogue, c’est-à-dire dis-cours, se présent selon deux directions très différentes.

Bài L’Interruption lần đầu được đăng trên Nouvelle Revue Française số 137 tháng 5, 1964. Điều thú vị nằm ở chỗ Blanchot chơi chữ khi ngắt từ discours thành dis-cours.

[25] Edmond Jabès, Le Livre des Marges (1975) trang 48: C’est dans la fragmentation que se donne à lire l’immensurable totalité. Aussi, est-ce toujours par rapport à une totalité controuvée que nous affrontons le fragment; celui-ci figurant, chaque fois, cette totalité dans sa parties reçue, proclamée et, en même temps, par sa contestation renouvelée de l’origine, devenant, en se substituant à elle, soi-même origine de toute origine possible, décelable.

[26] Paul Auster, Book of the Dead: An Interview with Edmond Jabès trong The Sin of the Book, edited by Eric Gould trang 14. Bài phỏng vấn này lần đầu được đăng trên New York Review of Book 28 tháng 4, 1977.

 

(c̣n tiếp)

ĐÀO TRUNG ĐẠO