đào trung đạo
thi sĩ / thi ca
(37)
Kỳ 1, Kỳ 2, Kỳ 3, Kỳ 4, Kỳ 5, Kỳ 6, Kỳ 7, Kỳ 8, Kỳ 9, Kỳ 10, Kỳ 11, Kỳ 12, Kỳ 13, Kỳ 14, Kỳ 15, Kỳ 16, Kỳ 17, Kỳ 18, Kỳ 19, Kỳ 20, Kỳ 21, Kỳ 22, Kỳ 23, Kỳ 24, Kỳ 25, Kỳ 26, Kỳ 27, Kỳ 28, Kỳ 29, Kỳ 30, Kỳ 31, Kỳ 32, Kỳ 33, Kỳ 34, Kỳ 35, Kỳ 36, Kỳ 37,
RENÉ CHAR
LE VISAGE NUPTIAL
À présent disparais, mon escorte, debout dans la distance;
La douceur du nombre vient de se détruire.
Congé à vous, mes alliés, mes violents, mes indices.
Tout vous entraîne, tristesse obséquieuse.
J’aime.
L’eau est lourde à un jour de la source.
La parcelle vermeille franchit ses lentes branches à ton front, dimension rassurée.
Et moi semblable à toi,
Avec la paille en fleur au bord du ciel criant ton nom,
J’abats les vestiges,
Atteint, sain de clarté
Ceinture de vapeur, multitude assouplie, diviseurs de la crainte, touchez
ma renaissance.
Parois de ma durée, je renonce à l’assistance de ma largeur vénielle;
Je boise l’expédient du gîte, j’entrave la primeur des survies.
Embrassé de solitude foraine,
J’évoque la nage sur l’ombre de sa Présence.
Le corps désert, hostile à son mélange, hier, était revenue parlant noir.
Déclin, ne te ravise pas, tombe ta massue de trances, aigre sommeil.
Le décolleté diminue les ossements de ton exil, de ton escrime;
Tu rends fraîche la servitude qui se dévore le dos;
Risée de la nuit, arrête ce charroi lugubre
De voix vitreuses, de departs lapidés.
Tôt soustraît au flux des lésions inventives
(La pioche de l’aigle lance haut le sang évasé)
Sur un destin présent j’ai mené mes franchises
Vers l’azur multivalve, la granitique dissidence.
Ô voûte d’effusion sur la couronne de son ventre,
Murmure de dot noire!
Ô mouvement tari de sa diction!
Nativité, guidez les insoumis, qu’ils découvrent leur base,
L’amande croyable au lendemain neuf.
Le soir a fermé sa plaie de corsaire où voyageaient les fusées vagues
parmi la peur soutenue des chiens.
Au passé les micas du deuil sur ton visage.
Vitre inextinguible: mon souffle affleurait déjà l’amitié de ta blessure,
Armait ta royauté inapparente.
Et des lèvres du brouilard descendit notre plaisir au seuil de dune, au toit d’acier.
La conscience augmentait l’appareil frémissant de ta permanence;
La simplicité fidèle s’étendit partout.
Timbre de la devise matinale, morte-saison de l’étoile précoce,
Je cours au terme de mon cintre, colisée fossoyé.
Assez baisé le crin nubile des céréales
La cardeuse, l’opiniâtre, nos confins la soumettent
Assez maudit le havre des simulacres nuptiaux:
Je touche le fond d’un retour compact.
Ruisseaux, neume des morts anfractueux,
Vous qui suivez le ciel aride,
Mêlez votre acheminement aux orages de qui sut guérir de la desertion,
Donnant contre vos études salubres.
Au sein du toit le pain suffoque à porter cœur et lueur.
Prends, ma Pensée, la fleur de ma main pénétrable,
Sens s’éveiller l’obscure plantation.
Je ne verrai pas tes flancs, ces essaims de faim, se dessécher, s’emplir de ronces;
Je ne verrai pas l’ampuse te succéder dans ta serre;
Je ne verrai pas l’approche des baladins inquiéter le jour renaissant;
Je ne verrai pas la race de notre liberté servilement se suffire.
Chimères, nous sommes montés au plateau.
Le silex frissonnait sous les sarments de l’espace;
La parole, lasse de défoncer, buvait au débarcadère angélique.
Nulle farouche survivance:
L’horizon des routes jusqu’à l’afflux de rosée,
L’intime dénouement de l’irréparable.
Voici le sable mort, voice le corps sauvé:
La Femme respire, l’Homme se tient debout.
[Le Visage nuptial là tựa đề chung cho các bài Conduite, Gravité, Le Visage nuptial,
Évadné, và Post-Scriptum trong tập Seuls demeurent thuộc tuyển tập Fureur et Mystère xuất bản năm 1962 gồm Seuls demeurent (L’Avant-Monde, Le Visage nuptial, Partage formel), Feuillets d’Hypnos, Les Loyaux adversaries, Le Poème pulvérisé, và La Fontaine narrative. Bản Œuvres complètes trang129-278]
KHUÔN MẶT TÂN HÔN
Giờ đây kẻ hộ tống của ta, đứng nơi xa xa, biến dạng;
Sự dịu dàng của con số vừa tự hủy.
Hỡi những kẻ chung đường, những kẻ hung bạo, những kẻ chỉ đường của ta, ta cho các ngươi nghỉ phép.
Tất cả đều lôi các ngươi đi chỗ khác, nỗi buồn xu nịnh.
Ta đang yêu.
Vào một ngày nước từ nguồn chĩu nặng.
Tán lá đỏ thắm từ từ nhảy qua những cành chậm của nó tới vầng trán em,
Và anh, cũng như em,
Bằng cọng rơm nở hoa cuối trời réo gọi tên em,
Anh đốn hạ những dấu tích,
Xong xuôi, mạnh khỏe thấy rõ.
Vòng đai hơi nước, những sợ hãi ngăn chia , phần nhiều đã giảm, em hãy chạm tay vào sự tái sinh của anh.
Vách ngăn giòng thời gian của anh, anh từ chối sự giúp đỡ bao lầm lỗi có thể tha thứ của anh ;
Anh lập tức chống nâng nơi cư ngụ, anh cản ngăn những tồn tại sớm kết trái.
Cháy bỏng bởi cô đơn lưu động,
Anh gợi ra việc bơi trên bóng sự Hiện diện của nàng.
Hôm qua, thân xác sa mạc, thù nghịch chung chạ, đã trở lại nói năng mơ hồ.
Hỡi tàn vong, đừng có ngưng chuyển động, hãy buông cái dùi cui động kinh xuống, giấc ngủ cay mắt.
Áo hở vai làm giảm xương cốt lưu đầy, sức giao đấu của ngươi;
Ngươi làm mới cưỡng chống tự hủy;
Hỡi gió đêm thoảng qua, hãy chặn lại chuyến xe tang
Của những tiếng nói lồng kiếng, của những khởi hành bị ném đá.
Chẳng bao lâu nữa thoát khỏi những vết thương bày đặt
(Móng vuốt chim ưng tung cao máu loang tràn)
Trên một định mệnh hiện thời anh đã dẫn những ngay thực của mình
Đi về phía bầu trời xanh nhiều khoang, về phía sự bất đồng đá cứng.
Ôi sự dạt dào dâng cao trên vòm bụng nàng,
Tiếng thầm thì của hồi môn đen!
Ôi chuyển động mệt mỏi của lời nàng nói!
Sự sinh sản, hãy dẫn dắt những kẻ bất tuân phục, chúng có thể khám phá ra nền của chúng,
Quả hạnh nhân có thể tin vào ngày mới.
Buổi chiều đã khép lại vết thương sâu nơi những hỏa tiễn bay liệng giữa nỗi sợ hãi nặng chĩu.
Hãy ném vào quá khứ những tấm khăn tang trong suốt trên khuôn mặt em.
Hỡi ô cửa kính khôn nguôi: hơi thở anh đã lướt trên tình bạn tổn thương của em,
Trang bị cho vương quyền kín đáo của em.
Và những làn môi sương mù hạ thấp mấp mé, sát mái sự khoái lạc của chúng ta.
Ý thức tăng thêm dẫy trang sức run rẩy của sự luôn có mặt của em;
Đơn giản trung thành trải rộng khắp nơi.
Tiếng ngân nga của câu cúc tụng ban mai, mùa-chết của sao sớm,
Anh chạy hết vòm cung của mình, đại quảng trường mộ địa.
Đã hôn đủ lâu cuống lúa đương thì:
Ôi cọng bướng bỉnh, sải tay chúng mình buộc nó qui phục.
Nguyền rủa quá đủ nơi ẩn náu của những giả hình tân hôn:
Anh chạm tay vào đáy sâu của một trở lại bền bỉ.
Hỡi suối, hồn thiêng của nhưng kẻ đã chết vì bị hành hạ,
Các ngươi những kẻ đi theo bầu trời cằn cỗi,
Hãy trộn lẫn đường đi của các ngươi vào giông bão của kẻ biết chữa lành sự đào thoát,
Phản đối những sưu khảo cứu chữa.
Ngay giữa mái nhà bánh mì ngộp thở vì mang vác trái tim và ánh mờ.
Hỡi tư tưởng của ta, hãy cầm lấy bông hoa của bàn tay có thể xuyên thấu của ta,
Hãy cảm nhận việc trồng trọt tối tăm thức giấc.
Ta sẽ chẳng nhìn cạnh sườn ngươi, hỡi đám người chết đói này, lũ khô héo, gai góc đầy mình;
Ta sẽ chẳng nhìn con bọ ngựa thay thế ngươi trong căn nhà kính trồng hoa của ngươi;
Ta sẽ chẳng nhìn bọn hát rong tới gần làm rộn ngày tái sinh;
Ta sẽ chẳng nhìn cuộc chạy đua của tự do tự lệ thuộc của chúng ta.
Hỡi quỉ dữ, chúng ta đã trèo lên cao nguyên.
Đá cứng đã run rẩy dưới những chùm dây leo của không gian;
Lời nói, mệt nhoài để thông suốt, đã giải khát ở vịnh thiên thần.
Không có sự sống sót hoang dã nào:
Đường chân trời của những con đường đến tận giòng chảy thanh xuân,
Sự cởi bỏ thiết thân của cái không thể sửa chữa.
Đây là cát chết, đây là thân xác đã được cứu sống:
Người đàn bà thở, người Đàn ông đứng thẳng.
Bài thơ này là dấu mốc quan trọng của lộ trình thi ca René Char. Bản thảo của Char ghi: “Maubec, mùa Hè [19] 38 – Paris, mùa Thu 38” bản in (115 bản, không bán) bài thơ ghi ngày 15 tháng Chạp và vào tháng Giêng Char đã ký tặng bản này cho Pierre Mabille. Theo Marie-Claude Char [người vợ sau cùng của Char] trong René Char, dans l’atelier du poète (nxb Gallimard 1996 trang 310-313) bài thơ được xuất bản ngày 15 tháng Chạp có kèm minh họa của Greta Knutson; ngày 26 tháng Tám trước đó trong một bức thư gửi cho Gilbert Lely Char có nói đến những khó khăn trong việc viết bài thơ như sau: “Tôi làm việc cho một bài thơ dài, chẳng thể cắt tỉa mấy chút, một thứ độc thoại đúc kết của những người tình; tựa (tạm thời)= Người Phụ Nữ Thở, Người Đàn Ông Đứng Thẳng. Sẽ thấy trong tương lai!” Bản in bài thơ trong René Char, dans l’atelier du poète cho thấy Char đã từng gạch bỏ tựa đề “Le visage nuptial.” Những chi tiết trên cho thấy René Char đã trăn trở trong một thời gian dài khi viết bài thơ. Jean-Claude Mathieu trong La Poésie de René Char cũng như Ann Mary Caws trong Presence of René Char đã có diễn giải khá xuất sắc về bài thơ này. Tôi sẽ nói tới sau.
(còn tiếp)
đào trung đạo
http://www.gio-o.com/DaoTrungDao.html
© gio-o.com 2016