ĐÀO TRUNG ĐẠO
(113)
Edmond Jabès
Kỳ 1, Kỳ 2, Kỳ 3, Kỳ 4, Kỳ 5, Kỳ 6, Kỳ 7, Kỳ 8, Kỳ 9, Kỳ 10, Kỳ 11, Kỳ 12, Kỳ 13, Kỳ 14, Kỳ 15, Kỳ 16, Kỳ 17, Kỳ 18, Kỳ 19, Kỳ 20, Kỳ 21, Kỳ 22, Kỳ 23, Kỳ 24, Kỳ 25, Kỳ 26, Kỳ 27, Kỳ 28, Kỳ 29, Kỳ 30, Kỳ 31, Kỳ 32, Kỳ 33, Kỳ 34, Kỳ 35, Kỳ 36, Kỳ 37, Kỳ 38, Kỳ 39, Kỳ 40, Kỳ 41, Kỳ 42, Kỳ 43, Kỳ 44, Kỳ 45, Kỳ 46, Kỳ 47, Kỳ 48, Kỳ 49, Kỳ 50, Kỳ 51, Kỳ 52, Kỳ 53, Kỳ 54, Kỳ 55, Kỳ 56, Kỳ 57, Kỳ 58, Kỳ 59, Kỳ 60, Kỳ 61, Kỳ 62, Kỳ 63, Kỳ 64, Kỳ 65, Kỳ 66, Kỳ 67, Kỳ 68, Kỳ 68,Kỳ 66, Kỳ 69, Kỳ 70, Kỳ 71, Kỳ 72, Kỳ 73, Kỳ 74, Kỳ 75, Kỳ 76, Kỳ 77, Kỳ 78, Kỳ 79, Kỳ 80, Kỳ 81, Kỳ 82, Kỳ 83, Kỳ 84, Kỳ 85, Kỳ 86, Kỳ 87, Kỳ 88, Kỳ 89, Kỳ 90, Kỳ 91, Kỳ 92, Kỳ 93, Kỳ 94, Kỳ 95, Kỳ 96, Kỳ 97, Kỳ 98, Kỳ 99, Kỳ 100, Kỳ 101, Kỳ 102, Kỳ 103, Kỳ 104, Kỳ 105, Kỳ 106, Kỳ 107, Kỳ 108, Kỳ 109, Kỳ 110, Kỳ 111, Kỳ 112, Kỳ 113,
Phần lớn những người viết về Edmond Jabes ít quan tâm tới tập thơ Je bâtis ma demeure, chì nói nhiều đến những “Quyển Sách” – nhất là quyển Le Livre des Questions – nên trong cuộc gặp gỡ trao đổi với những người tham dự hội luận ở Cereisy-la-Salle vào ngày cối quanh chủ đề Écrire le Livre: Autour d’Edmond Jabès Jabès sau khi cảm tạ các diễn giả đã lưu ý mọi người và nói lên một điều đáng tiếc: “Tuy nhiên, về phần tôi, có thể hơi tiếc: đó là, suốt dọc những tiếp cận này, chẳng hề thực sự chẳng ai đoái hoài gì đến quyển sách đầu tiên của tôi, quyển này như quí vị biết, là một tập thơ rất dầy. Điều này khiến tôi thành ra là một người cha hay một người mẹ mà người ta ca ngợi mười hai đứa con của họ, và người cha người mẹ này sực nhớ lại rằng: “nhưng quí vị cũng biết đấy, chúng tôi cón có đứa con thứ mười ba nữa”. Nếu tôi nói như vậy, chính bởi nhà văn thường có khuynh hướng bỏ qua quyển sách đầu tay của mình rất nhanh, hay, ít ra, nếu họ có nói đến nó đi nữa, luôn luôn chính là để báo trước rằng thật ra đây chỉ là tác phẩm đầu tay thôi. Nhưng, thật ra, quyển sách đầu tiên, chính là người anh cả. Nơi những nhà văn, điều này xảy ra khác hẳn so với những gia đình hoàng gia ở đó, như quí vị biết đấy, người trưởng nam là kẻ sẽ được kế vị làm vua, và, cũng rất có thể, bị đưa lên đoạn đầu đài..”[3] Sau đó Jabès cho mọi người biết tuy mình không có chút kỷ niệm nào về những bản văn đã viết nhưng lại có ký ức thật rõ rệt một cách đáng ngạc nhiên về bài thơ đầu tiên trong tập thơ: đó là một bài thơ nho nhỏ viết năm 1942 có tựa đề “Kẻ Lạ”. Jabès đọc cho mọi người nghe:
Tôi tìm kiếm
một người mà tôi không biết
người này, lại chẳng bao giờ là chính tôi
kể từ khi tôi đi tìm ông ta
Ông ấy có chăng đôi mắt, bàn tay của tôi không
và tất cả những ý tưởng này tựa như
những đồ phế thải của thời gian?
Mùa của hàng nghìn vụ đắm tầu.
Biển chẳng còn là biển,
mà đã thành nước lạnh căm của những nấm mồ.
Nhưng, thật xa kia, ai biết bao xa?
có một cái chai ca hát khi trôi giật lùi
và trị vì đêm tối trên những cành cây,
kẻ chăn súc vật giữa những con cừu.
Hãy trao sự khát cho hạt muối
chẳng thức uống nào làm hết khát cả.
Với những tảng đá, một thế giới tự soi mòn
để trở thành, như tôi, của không nơi nào.[4]
Trong bài Introduction/Nhập cho tập The Selected Poems of Edmond Jabès của Keith Waldrop nhà văn Paul Auster nhận xét: những chủ đề (themes) và văn phong (styles) của Jabès trong những tập Livre des Questions và Livre des Ressemblances đã được Jabès khai mở trong những bài thơ viết thời trẻ. Ngay chủ đề lưu đầy đóng vai trò quan trọng trong những sách tản văn sau này cũng đã có trong những bài thơ ban đầu như chính Jabès viết: “ Vẫn thường sống trong một xứ lạ, thi sĩ sử dụng thi ca như một người thông dịch.” Nếu so sánh tập Je bâtis ma demeure với những câu, đoạn văn trong những “Quyển sách” chúng ta có thể nhận thấy có những sự tương tự gần đến mức có thể khiến người ta nghĩ rằng Jabès dường như đã tưởng tượng ra những quyển sách sẽ viết khi làm những bài thơ này. Phải chăng những quyển sách đã “nằm trong lòng” Jabès và chỉ chờ cơ hội lịch sử bỗng làm thay đổi cuộc đời Jabès để xuất hiện?
__________________________________
[3] Écrire le Livre: Autour d’Edmond Jabès trang 300: Je dirais néamoins peut-être un léger regret de ma part: c’est que, tout au long de ces approches, il n’a jamais été fait vraiment mention de mon premier livre qui est, comme vous le savez, un très gros receuil de poèmes. Cela m’a fait l’effet d’un père ou d’une mère à qui l’on fait éloge de leurs douze enfants, et qui tout à coup rappellent: “mais vous savez, j’en ai un treizième”. Si je dis cela, c’est parce que les écrivains ont tendance à se débarrasser trop vite de leur premier livre, ou, du moins, s’ils en parlent, c’est toujours en prevenant qu’il s’agit bien du premier. Mais, en fait, le premier livre, c’est l’aîné. Chez les écrivains, cela se passe autrement que dans les familles royales où comme vous le savez, l’aîné est celui qui est destiné à être roi, et, peut-être, à être guillotiné...
[4]
CHANSON DE L’ÉTRANGER
Je suis à la recherche
d’un homme que je ne connaîs pas
qui, jamais, ne fut tant moi-même
que depuis que je le recherche.
A-t-il mes yeux, mes mains
et toutes ces pensées pareilles
aux épaves du temps?
Saison des milles naufrages.
La mer cesse d’être la mer,
devenue l’eau glacée des tombes.
Mais, plus loin, qui sait plus loin?
une fillette chante à reculons
et règne la nuit sur les arbres,
bergère au milieu des moutons.
Arrachez la soif au grain de sel
qu’aucune boisson ne désaltère.
Avec les pièrres, un monde se ronge
d’être, comme moi, de nulle part.
(Le Seuil Le Sabre trang 46)
___________________________________
THƠ EDMOND JABÈS
L’AUBERGE DU SOMMEIL/QUÁN TRỌ
[Trích đoạn]
Avec mes poignards
volés à l’ange
Je bâtis ma demeure
Với những con dao găm của mình
ăn trộm của thiên thần
tôi xây nơi cư ngụ của tôi
La couleur de tes cheveux sur les murs
La colonne de ta robe plissée dans la pénombre
La part promise de tes parolles autour du lustre étreinte
Tes sœurs les filles mères au bandeau de fain
tes sœurs les cinq sens les cinq mois de ta naissance
Màu tóc em hắt trên những bức tường
Nếp dọc váy xếp nếp của em trong bóng mờ
Phần hứa hẹn của những lời em quanh ánh tỏa sáng thu hẹp
Những chị em của em những người mẹ không lấy chồng của em quấn giải khăn đói kém
những chị em của em những năm ý nghĩa những năm năm tháng từ ngày em chào đời
Avec mes poignards
volés à l’ange
Je bâtis ma demeure
Với những con dao găm của mình
ăn trộm của thiên thần
tôi xây nơi cư ngụ của tôi
Thibet lointain où nul ne t’atteint où tu retrouves intacte ton âme verre et belle
échappée aux églises parmi les bâtons de réglisse que savourent nonchalamment les sages
les frêles crayons d’ennui avec lesquels tu illumines d’éclairs la nuit
Tu joins la mort à l’amour le désir des roses
à la terre terrible du passé l’araignée à la pie insupportable
Thibet nơi xa xăm ở đó không ai tới em ở đó em tìm lại được linh hồn nguyên vẹn xanh và đẹp
và thoát khỏi những giáo đường giữa những cây kèn clarinet những kẻ khôn ngoan liếm ơ hờ
những cây bút chì dễ gẫy của sự buồn chán em dùng để thắp sáng ánh đêm
Em trộn lẫn cái chết với tình yêu em trộn lẫn sự ham muốn với những bông hồng
với trái đất khủng khiếp của quá khứ mạng nhện với chim ác không thể chịu đựng
Avec mes poignards
volés à l’ange
Je bâtis ma demeure
Với những con dao găm của mình
ăn trộm của thiên thần
tôi xây nơi cư ngụ của tôi
L’oiseau au compas d’infini a déserté le ciel
Il chante sur ton épaule le désespoir des années
La mer a condamné ses feux dans chacun de ses nids
L’horloge aux gradins d’alcool au vieux cadran d’insomnie
retient ton heure entre toutes la seule réelle
blanche autour de tes prunelles d’immuable dimanche
Con chim với vòng quay của vô tận đã bỏ trốn bầu trời
Nó hót trên vai em nỗi tuyệt vọng của năm này qua năm khác
Biển đã kết án lửa của nó trong mỗi cái tổ của nó
Đồng hồ mức rượu với cái mặt mất ngủ
giữ lại thời giờ thực sự của em giữa tất cả những giờ
trắng quanh tròng mắt của ngày chủ nhật bất động
Avec mes poignards
volés à l’ange
Je bâtis ma demeure
Fantastiques plongées des harpons de rosée
où le fruit crache l’écume de la colère contenue
où l’écrin bâille son jus de jardin mélancolique
Embaumé l’horizon est piqué de ronces profanes
tandis que le verdict est prononcé par des juges de plâtre
les rubis des flûtes crime sertis aux ongles
Với những con dao găm của mình
ăn trộm của thiên thần
tôi xây nơi cư ngụ của tôi
Sự lao xuống kỳ lạ của những cái móc câu của sương
nơi trái cây mửa bọt sự giận dữ chất chứa của nó
nơi cái hộp đựng nữ trang há hốc nhả nước của vườn u sầu
Chân trời ngát hương bị châm chích bởi những bụi gai báng bổ
trong khi bản án được tuyên bố bởi những quan tòa bột
những viên hồng ngọc từ những chiếc sáo tội ác được nhận vào móng tay họ.
Avec mes poignards
volés à l’ange
Je bâtis ma demeure
Với những con dao găm của mình
ăn trộm của thiên thần
tôi xây nơi cư ngụ của tôi
L’encre des matins gercés qu’épuisent les hymalayas d’absolu
le long des crèches de mousse où vient battre l’onde des esprits du vide
perce l’un après l’un de ses aiguilles les viviers engloutis des livres
Tu veux être aimée pour ta logique de sirène pour ta sève de proie conquise
Les chasseurs d’eau vive te guettent Ils retirent anxieux leurs filets de l’ombre
Tu étais derrière eux dans le songe qui soulevait leurs pas
De leurs traces sur le sable regarde comme ils sont effrontément fiers
Mực của những buổi sáng lở lói những dãy Hy mã lạp sơn của tuyệt đối vét cạn
dọc những máng rêu nơi sóng của những hồn linh trống rỗng khua động
xuyên thủng dần dà bằng những mũi kim những lồng bẫy nuốt chửng những quyển sách
Em muốn được yêu cho cái luận lý quyến rũ cho tiếng rít lên như con mồi sập bẫy của em
Những kẻ săn nước suối rình rập em Chúng lo lắng kéo những tấm lưới bóng tối của chúng lại
Em ở phía sau chúng trong giấc mơ làm bước chân chúng cất lên
Từ những dấu trên cát của chúng em hãy nhìn xem chúng kiêu hãnh một cách không biết hổ thẹn ra sao
...................................
(còn tiếp)
ĐÀO TRUNG ĐẠO
http://www.gio-o.com/DaoTrungDao.html
© gio-o.com 2018