đào trung đạo

thi sĩ / thi ca

(58)

 

Kỳ 1, Kỳ 2, Kỳ 3, Kỳ 4, Kỳ 5, Kỳ 6, Kỳ 7, Kỳ 8, Kỳ 9, Kỳ 10, Kỳ 11, Kỳ 12, Kỳ 13, Kỳ 14, Kỳ 15, Kỳ 16, Kỳ 17, Kỳ 18, Kỳ 19, Kỳ 20, Kỳ 21, Kỳ 22, Kỳ 23, Kỳ 24, Kỳ 25, Kỳ 26, Kỳ 27, Kỳ 28, Kỳ 29, Kỳ 30, Kỳ 31, Kỳ 32, Kỳ 33, Kỳ 34, Kỳ 35, Kỳ 36, Kỳ 37, Kỳ 38, Kỳ 39, Kỳ 40, Kỳ 41, Kỳ 42, Kỳ 43, Kỳ 44, Kỳ 45, Kỳ 46, Kỳ 47, Kỳ 48, Kỳ 49, Kỳ 50, Kỳ 51, Kỳ 52, Kỳ 53, Kỳ 54, Kỳ 55, Kỳ 56, Kỳ 57, Kỳ 58,

 

RENÉ CHAR

 

5. Những định nghĩa (définitions): Động từ “être/là” được dùng trong các trường hợp định nghĩa, định tính (caractérisation), và những h́nh thức nhấn mạnh. Chẳng hạn để định nghĩa như: “Le poème est ascension furieuse…/Bài thơ là sự vượt lên cuồng nộ…”(frag.56), “Résistance n’est qu’espérance…/Chống đối/Kháng chiến chỉ là ước vọng…” (frag.168), “La lucidité est la blessure la plus rapprochée du soleil/Trong sáng là vết thương cận kề mặt trời nhất” (frag. 169), để định tính như: “Le fruit est aveugle…/Trái cây là đui mù…”(frag.165), “L’acte est vierge, même répété/Hành vi là trinh nguyên, ngay cả khi được lập lại” (frag.46), “…l’homme est receleur de son contraire/Con người là kẻ dấu kín cái trái nghịch của ḿnh” (frag.55), “L’homme est capable de faire ce qu’il est incapable d’imaginer/Con người có thể làm điều hắn không thể tưởng tượng ra”; để làm nổi bật như “C’est mettre à vif son âme que de rebrousser chemin dans son intimité avec un être…/Chính là lột sống tâm hồn ḿnh khi lùi bước trước sự thân thiết với một con người” (frag.84) v.v…Đôi khi trong một số đoạn rời khác động từ “être” được hiểu ngầm chẳng hạn “C’est quand tu es ivre que tu n’a pas plus du chagrin de cristal/Khi nhà ngươi bí tỉ th́ nhà ngươi không c̣n có nỗi buồn của pha lê nữa.” (frag.200).

6.Những phát biểu hữu danh (Les énoncés personnels) : Jean-Claude Mathieu nhận xét trong Feuillets có ba mươi đoạn rời với giọng tự sự luôn luôn là “tôi”(je) chỉ ra chủ quan tính của người thuật chuyện, hiếm khi là tuyên bố vô ngă (énoncé impersonnel) như “Je rêve d’un pays…/Tôi mơ về một xứ sở…” (frag.45). “Je pense à la femme que j’aime…Tôi nghĩ về người phụ nữ tôi yêu…” (frag.119) v.v…Trong số ba mươi đoạn rời này có bảy đoạn rời không được viết ở th́ hiện tại: “Je n’écrirai pas…/Tôi sẽ không viết…” (frag.114) động từ ở thể tương lai c̣n sáu đoạn rời khác động từ ở thể quá khứ kép (passé composé) chẳng hạn “Horrible journée! J’ai assisté, distant de quelque cent mètres…/Một ngày kinh hoàng! Tôi đă chứng kiến, cách khoảng vài trăm thước…”(frag.138), “J’ai visé le lieutenant…/Tôi nhắm bắn tên trung úy…”(frag.121) v.v… mười lăm đoạn rời c̣n lại dùng từ “nous/chúng tôi” nghĩa là chủ thể/chú quan tính được nới rộng ra các kháng chiến quân chẳng hạn “Nous sommes pareils à ces crapauds…/Chúng tôi như những con cóc…”(frag.129), “nous sommes pareils à ces poissons/chúng tôi như những con cá…”(frag.134) v.v…

7. Phân tích tương lai (L’analyse du future): Jean-Claude Mathieu nhận thấy có bảy đoạn rời ở th́ tương lai: việc cứu xét sự trở thành quan trọng hơn bức tranh tương lai trong một thời kỳ mà viễn cảnh tương lai thấp. Những đoạn rời như “Enfonce-toi dans l’inconnu…/Hăy nhấn ḿnh vào trong cái không biết”, “Les justiciers s’estompent. Voici les cupides…”,  ở thời tương lai tức khắc (future immediate), “Cette guerre se prolongera au-delà des armistices platoniques…”, “Viendra le temps où les nations…”, “Parole, orage, glace et sang finiront par former un givre commun” v.v…

8. Những câu chuyện ở th́ quá khứ: Có mười ba đoạn rời ở thời quá khứ không hoàn tất (imparfait) chia là ba nhóm: những câu chuyện được khai triển khá đầy đủ: việc thả dù (frag. 53), vụ lùng xục Cérest (frag.128), nhắc đến những chiến hữu đă mất (frag.11), những câu nói  theo dạng thức hai vế đối nghịch (en diptypque) như “On donnait jadis un nom aux diverses tranches de la durée: ceci était un jour, cela un mois, cette église vide, une année.Nous voici abordant la seconde où la mort est la plus violente et la vie la mieux définie/Ngày trước người ta dùng một cái tên cho một những lát khác nhau của ḍng chảy thời gian: tên này [để chỉ] một ngày, tên kia một tháng, cái nhà thờ này trống không, một năm. Bây  giờ chúng ta va vào cái giây phút ở đó cái chết rất mănh liệt và đời sống được định rơ hơn.”(frag.90) v.v…

Viết, “mũi nhọn đối diện thời gian” (Écrire, “la proue face au temps”): René Char khi biên tập Feuillets d’Hypnos cho rằng đây là cái hoàn toàn mới mẻ trong tác phẩm của ḿnh. Jean-Claude Mathieu giải thích sự mới mẻ này: do những từ hoàn toàn ôm trọn (La nouveauté, d’amples brassées de mots), cho đến nay chưa thấy trong tác phẩm của Char, sự mới mẻ cũng c̣n trực tiếp đến từ cuộc sống của những kháng chiến quân dân miền núi. Chẳng hạn cách nói “dépecer le dimanche/xẻ thành mảnh ngày chủ nhật”, “L’intelligence avec l’Ange/Sự thông minh với Thiên thần” được dùng đối nghịch với “sự thông minh với kẻ thù”, “la lune d’étain vif et de sauge/trăng màu bạc ṛng và màu ngải đắng” cho thấy cả một vũ trụ mênh mông bao la và gió thổi lật những trang sổ tay này. Cái mới mẻ cũng c̣n nằm ở chỗ việc ghi chú tự do trong đó những câu văn căng ra, xao xuyến được đặt kế bên những câu văn về sự điều chỉnh hành động, những phân tích sao cho rơ ràng, những bàn bạc thân t́nh, những mẩu đàm thoại. Jean-Claude Mathieu viết: “Thế nhưng toàn thể những ghi chú này, dù cho sự ghi nhận chúng như thế nào chăng nữa, chúng có chung cái làm nên sự mới mẻ chính yếu của quyển sách là: xuyên suốt điều những ghi chú hàm ư, chúng biểu thị một thời kỳ ngoại lệ (temps d’exception)…Một văn tự có màu thời gian. Chẳng hạn bản văn “ Aussitôt qua la vérité trouve un ennemi à sa taille, elle dépose l’armure de l’ubiquité et se bat avec les ressources même de sa condition/Nhưng ngay khi sự thực nhận ra một kẻ thù ngang tầm, sự thực đặt sang một bên tấm áo giáp hiện diện khắp nơi và chiến đấu bằng ngay những phương sách mà nó khả dĩ có được.”(frag.189)[103] [chơi chữ: dénoter/ connoter]. Jean-Claude Mathieu nhận xét ư nghĩa của hiện tại không bị giải mă (déchiffrée) qua trung gian những huyền thoại, giọng điệu nhấn mạnh chủ nghĩa quốc gia được tránh, “cây bút ngọn lông trừu” (plume à bec de belier) nỗ lực thăm ḍ,vạch đường t́m đến cái không nh́n thấy và không có thể tin, chưa từng có trước đây của thời kỳ. Thời kỳ ngoại lệ này cũng là thời điểm kỳ lạ, không thể chỉ ra theo nghĩa nó khác biệt tuyệt đối với h́nh ảnh cái có trước lịch sử: nó là thời điểm đầu tiên (temps premier), là thời tiền sử v́ nước Pháp nay là “Nước-Pháp-Hang-Động”, một thời kỳ-phản-thời-gian (anti-temps). Jean-Claude Mathieu cho rằng việc nhận thức những lời lẽ trong các đoạn rời ngầm chứa việc giả thiết hoài hủy, qui chiếu về cái thời kỳ đặc biệt này. Ngoài ra cũng nên chú ư tới việc ghi nhận hàng ngày bằng những dấu chỉ phó từ (marques adverbiales), giữa hai mệnh đề độc lập hay một mệnh đề chính và một mệnh đề tương liên có một đường vạch chia cách quá khứ với hiện tại, cụm từ “ne… plus/không…c̣n là nữa” như câu “Il n’est plus question…/Không c̣n là vấn đề nữa…”, những từ để so sánh (comparatifs) qui hồi về sự khác biệt về cường độ của thời gian diễn ra sự thay đổi; những danh từ dùng để trực tiếp chỉ thời gian như “le temps se guide sur l’été doré/Thời gian đi theo mùa hè vàng óng”, “Étoiles du mois de mai/Những ngôi sao của tháng năm”, “Soleil de juin/Mặt trời của tháng sáu” v.v…; những động từ chỉ sự biến đổi hay bền vững như “Je pressens […] Ici on se prépare à revendiquer l’abstrait/Tôi tiên cảm […] Nơi đây người ta chuẩn bị tuyên nhận cái trừu tượng”, “Ton miroir s’est changé en feu/Tấm gương của ngươi đă biến đổi thành lửa”, “Je demeure la mère de lointains berceaux/Tôi vẫn măi là người mẹ của những cái nôi xa xôi” v.v…Những cái đinh ghim thời gian nhỏ bé này đính ghi chú vào hoàn cảnh. “Thế nhưng, một cách sâu xa hơn, tính chất ngoại lệ của thời đại sản sinh một hậu quả kép, đối nghịch, hậu quả này cung cấp diện mạo của nó cho văn tự của Sổ Tay. Một mặt, một thời gian g̣ ép giảm thiểu và hạn chỉ bản viết: “Tôi viết ngắn gọn. Tôi không thể nào vắng mặt lâu được.”(frag.32) […] Nhưng, ở mặt khác, sự gần gũi những con người và những sự vật, một mối quan hệ được làm mới, tươi tắn, có tính cảm thụ với trái đất và đêm tối thuận t́nh với khả năng bày tỏ. Cái ngoại lệ, trong sự thô nhám  và hồn hậu của nó, lấy đi và cho lại lời nói. Khi Char quay trở lại thời kỳ này, đó chính là sự đối nghịch giữa một tiếng nói “thẳng thừng” và một sự tràn đầy của cảm giác và của đời sống chúng đổ đầy cái nh́n và nâng đỡ lời nói, ông ta t́m lại được “Một cái chốt chặn ở hàm và một trái núi trong mắt nh́n” (Khói này mang vác chúng tôi”).[104]

 

NHỮNG “KHOẢNH KHẮC” CỦA HIỆN TẠI VÀ TIẾNG NÓI “THẲNG THỪNG”

Những giới hạn của viết: niềm im lặng và cái chết

Trong những bản văn trước Feuillets d’Hypnos của René Char chúng ta đă thấy xuất hiện cuộc thách thức nhau giữa ngôn ngữ và cái chết, sự thách thức của những từ cũng như sự kế cận thật sát gần của cái “Đi Ngang Qua” (Le Passant) và thi sĩ. Nhưng ở Feuillets cái chết và văn tự được đối mặt nhau một cách trực tiếp hơn. Văn tự bị đặt trực diện với cái xóa bỏ nó: “La vue du sang supplicié en a fait une fois perdre le fil, a réduit à néant leur importance/Nh́n thấy máu của kẻ bị hành h́nh làm mất đi mạch văn, đă thu giảm sự quan trọng của chúng vào hư không”, cọ sát với cái chết đưa đến việc tiệm lời, giảm thiểu vào “những từ thiết yếu” (les mots essentiels). René Char viết “Ce qui m’a mis au monde et qui m’en chassera n’intervient qu’aux heures où je suis trop faible pour lui résister. Vieille personne quand je suis né. Jeune inconnue quand je mourrai. La seule et même Passante/Cái đem tôi vào thế giới và sẽ xua đuổi tôi ra khỏi đó chỉ xảy đến trong những lúc khi tôi quá yếu đuối để cưỡng lại nó. Là kẻ đă già khi tôi sinh ra. Khi tôi chết kẻ vô danh đó sẽ c̣n trẻ trung. Vẫn chỉ một và cùng là Kẻ Đi Ngang Qua.” (frag.12) Jean-Claude Mathieu nhận xét về đoạn rời này: đó là một bản văn có nhịp điệu – 12 âm tiết (alexandrin), tám âm tiết cân đối (octosyllables balancés), sáu  âm tiết (hexasyllable) được làm thành cùng có âm điệu chỉ ra việc quành trở lại của cái chết chứa đựng đời sống. Và “Nếu những trao đổi tăng sức mạnh, th́ sức căng của hiện hữu và tư thế của đối nghịch với sự lây lan tranh đoạt, với sự thẩm thấu trong đời sống của một khí hậu hủy hoại và chết chóc. Sự đối nghịch khỏe khoắn, chính ở chỗ giao tiếp thảm họa, và với đối nghịch của nó mà một “sức khỏe của sự bất hạnh” khó nuốt được xác nhận; sức khỏe được chăm sóc: “Hăy niêm yết sức khỏe lạ lùng của chúng ta đối nghịch với ánh tỏa của hoàng hôn”(frag.82), “Hăy duy tŕ đối với người khác cái ǵ bạn chỉ hứa với ḿnh. Ở đó là <sức khỏe của bạn hợp đồng của bạn>”(frag.161)[105]

Cái chết tuy quyến rũ nhưng được duy tŕ ở giới hạn của văn tự, được đặt ngoài lề văn tự hay chỉ là kẻ đồng hành v́ “cái chết, [là] người phụ nữ được trang sức bằng sự trẻ trung toàn hảo” và Cái Đẹp khi được đón nhận giữ vị trí của cái chết, bí mật ǵn giữ sự thoáng hiện và dấu vết của ḿnh như René Char viết ở đoạn rời kết thúc (frag.237) Sổ Tay của Hypnos: “Dans nos ténèbres, il n’y a pas une place pour la Beauté. Toute la place est pour la Beauté/Trong những vùng bóng tối của chúng tôi, không có chỗ cho Cái Đẹp. Toàn thể nơi này là để dành cho Cái Đẹp.”

__________________________________________

[103] Sđd trang 233: Mais toutes ces notations, quelque soit leur registre ont en commun ce qui fait la principale nouveauté du livre: à travers ce qu’elle dénotent, elles connotent un temps d’exception. […] Une écriture aux couleurs du temps.

[104] Sđd trang 237: Mais plus profondément le caractère exceptionnel de l’époque produit un double effet, contradictoire, qui donne sa physionomie à l’écriture des Feuillets. D’une part, un temps astreignant abrège et raréfie l’écrit: “J’écris brièvement. Je ne puis guère m’absenter longtemps” (32) […] Mais, d’autre part, la proximité des êtres et des choses, une relation renouvelée, fraîche, sensuelle à la terre et à la nuit accorde pouvoir de s’exprimer. L’exceptionnel, dans sa rudesse et sa mansuétude, ôte et redone la parole. Quand Char se retournera vers cette époque, c’est cette opposition entre une langue “tranchée” et une plénitude de sensation et de vie qui emplit le regard et soutient la parole, qu’il retrouvera: “Un verrou aux mâchoires et une montagne dans le regard” (Cette fumée qui nous portrait.)

[105] Sđd trang 238: Salubre contradiction, c’est au contact du désastre, et à son encontre, qu’est affirmée une âpre “santé du malheur”; santé vigilante: “…sur l’éventail du crépuscule, postez votre étrange santé” (82). “Tiens vis-à-vis des autres ce que tu t’est promis à toi seul. Là est <ta santéton contrat>” (161, ms.).

 

(c̣n tiếp)

đào trung đạo

 

http://www.gio-o.com/DaoTrungDao.html

 

 

© gio-o.com 2017