đào trung đạo
thi sĩ / thi ca
(26)
Kỳ 1, Kỳ 2, Kỳ 3, Kỳ 4, Kỳ 5, Kỳ 6, Kỳ 7, Kỳ 8, Kỳ 9, Kỳ 10, Kỳ 11, Kỳ 12, Kỳ 13, Kỳ 14, Kỳ 15, Kỳ 16, Kỳ 17, Kỳ 18, Kỳ 19, Kỳ 20, Kỳ 21, Kỳ 22, Kỳ 23, Kỳ 24, Kỳ 25, Kỳ 26,
5
Aris Fioretos: Không có ǵ. Lịch sử và Vật Tính trong [thi ca] Celan.
Chủ đề của bài khảo luận Nothing. History and Materiality in Celan nhằm khám phá “những dấu vết của [nhà văn như] người đọc” trong tác phẩm của Celan, ư nghĩa của dấu vạch ngang trong thơ Celan, và trên hết mối quan hệ giữa văn tự và tiếng nói. Thi ca của Celan đặt ra vấn đề về sự thâm nhập có tính xung đột giữa nói và viết (speech and writing). “Cái chỉ đơn giản không có ǵ của tiếng nói này” là câu Kafka viết trong truyện ngắn “Josephine Ca sĩ, hay Bọn Chuột” được Aris Fioretos nhắc lại để nói về sự quan trọng của vấn đề nêu ra ở trên trong thi ca Celan. Đọc thơ Celan không khó nhận ra trong bản văn giọng điệu của những bài thơ lắp bắp, đứt đoạn hay trùng lặp như thể đuổi bắt hơi thở, ngưng thở và bắt đầu lại. Tuy nhiên những bài thơ này lại khá trôi chảy khiến ta có “ấn tượng rằng phần lớn những bản văn viết kể từ Sprachgitter/Nói qua lưới (1959) được viết ra như những chuyển động biểu đạt phức tạp, trong đó cú pháp của bài thơ tiến tới mức hơi thở lên cao, quay trở lại, uốn lượn, và đột nhiên thở mạnh/hắt ra.”(148) Theo Aris Fioretos vấn đề thâm nhập xung đột giữa nói và viết trong thơ Celan cần được khảo chứng nghiêm túc không những về những khía cạnh của ngôn ngữ như truyền thống đă qui định phạm vi nói gồm giọng (tone), câu (phrase) và âm sắc (timbre) mà c̣n về những vận dụng phát âm như việc làm mất đi tiếng nói (devoicing) cũng như những yếu tố và những phức hợp phát âm (graphematic elements and compounds) thật riêng biệt trong diễn ngôn thi ca của Celan. “Thực vậy, thi ca của ông ta, trong đó việc “ngưng giọng” có thể chứng tỏ là nan giải cho việc ca hát, đưa ra một trong những khám phá sắc sảo và uyên bác trong thi ca hậu-Lăng mạn của một học thuyết văn chương đặt nền tảng trên sự phân biệt giữa tinh thần và chữ viết.”(149). Nếu đem câu nói nêu trên của Kafka áp dụng vào thi ca Celan câu nói này giúp chỉ ra Celan tuy không cho tiếng nói vào những bài thơ của ḿnh nhưng tiếng nói vẫn diễn ra như một cung cách để chỉ nghĩa điều đă được nói ra. Aris Fioteros cho rằng những bài thơ của Celan v́ vậy không chỉ chứa đựng những nét tiêu biểu của phát âm mà c̣n có một cái ǵ đó chống lại việc bày tỏ bằng lời, đó là vật tính của viết (materiality of writing), tính chất này không thể được chuyển dịch vào ngôn ngữ nói của tiếng nói mà không xét đến cái c̣n lại không thể xét đến được (unaccountable remainder).
Để quảng diễn ư tưởng nêu trên Aris Fioteros qui chiếu về bài Der Meridian trong đó Celan đưa ra quan niệm về mối tương quan giữa văn chương, lịch sử, vật tính và cũng tŕnh bày một lư thuyết về thời gian tính thi ca (temporality poetic). Trong bài thuyết tŕnh này Celan tuyên bố rằng bài thơ không chỉ là ngôn ngữ như một việc nói ra nhưng là “ngôn ngữ được thể hiện, được giải thoát dưới dấu hiệu của một sự cá nhân hóa triệt để, song le việc cá nhân hóa này vẫn ư thức được những giới hạn ngôn ngữ đặt ra cũng như ư thức được những khả tính ngôn ngữ mở ra cho nó.”(150) Thoạt nh́n, Aris Fioretos nhận định, tuyên bố trên của Celan dường như là sự phân biệt khá quen thuộc giữa tính chất động và tĩnh của ngôn ngữ hay giữa ngôn ngữ và hành vi nói (act of speech). Thế nhưng, phân biệt của Celan giữa Sprache schlechthin/Lời nói như nói và ein Sprechen/ lời nói với một mặt lại không phải là sự tái chuyển nghĩa sự phân biệt của Saussure giữa langue/tiếng và parole/lời bởi trước hết phân biệt của Celan duy tŕ việc “nói” của bài thơ tùy thuộc vào khả tính nói với người/kẻ khác, “một kẻ khác đem tha tính (otherness) của hắn vào hiện tại,” “một tha tính cất tiếng cho cái riêng tư nhất của nó: đó là thời gian của nó.” Mặt khác, phân biệt này sau hết c̣n dẫn tới một ban hành của việc đưa thời gian của kẻ khác vào thời điểm Bây Giờ của diễn ngôn thi ca. Nói văn tắt: Thảo luận của Celan trộn hành vi của sản xuất ngôn ngữ với hành vi của hành vi tiếp nhận ngôn ngữ (Celan’s discussion blends the act of linguistic production with that of its reception.) Việc nhấn mạnh vào thời gian tính khác (another temporality) này có ư nghĩa đặc biệt đối với những phát biểu thi luận được tŕnh bày trong Der Maridian. Được giải thích như việc đọc những bản văn khác – ở đây là bản văn của Büchner – bài thuyết tŕnh không chỉ cung cấp mà c̣n tŕnh diễn một loạt những luận b́nh về những dấu nhấn (accents) của thời gian tính thi ca. Bàn về tính chất nghiêm trọng (acute) của câu nói mỉa mai của Camille “Hoàng đế vạn tuế!” Celan nhấn mạnh tới “sự nghiêm trọng của hôm nay” và sự trọng đại (grave) của lịch sử và của lịch sử văn chương. Theo Aris Fioretos “Vạch ra tính chất “nghiêm trọng” của chính thi ca Celan có nghĩa đọc con đường trong đó nó cung cấp một quan niệm được triệt để hóa về mối tương quan giữa văn chương và lịch sử đồng thời quan niệm này “luôn ư thức được những giới hạn do ngôn ngữ vạch ra cũng như những khả tính nó mở ra. Tính chất nghiêm trọng này gắn liền với ư hướng đối với ngôn ngữ thường được qui cho thi ca của Celan – một văn mạch trong đó việc xử lư của những bản văn về mối tương quan giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết có sự quan trọng đặc biệt.”(151)
Theo Aris Fioretos, trong thi ca Celan có những dấu vết của người viết trong tư cách độc giả là những yếu tố của một thi ca cô đọng trong đó chi tiết bản văn nhỏ nhặt nhất có thể tạo ra sự khác biệt. Chẳng hạn một việc trượt (slippage) vào cấu trúc qui chiếu của bài thơ thường biến cung cách của những lời bày tỏ (utterances) được viết ra không kém quan trọng so với những bày tỏ nói về điều ǵ. Để minh họa cho điều này Aris Fioretos trưng dẫn ư kiến của Peter Szondi về bản dịch bài Sonnet 105 của Shakespeare sang tiếng Đức của Celan: Szondi cho rằng đó là một “ Poetik der Beständigkeit/thi ca của sự bất biến”(152) không những tạo ra “một sự chuyển giọng từ người được ca ngợi sang hành vi ca ngợi hay viết lời ca ngợi” nghĩa là từ vật được chỉ nghĩa (signified) sang cái chỉ nghĩa (signifier) đă “chứng tỏ [Celan] cả gan hơn” Hölderlin khi nói rằng những bản dịch Sophocles của ông ta đưa ra một “ư định hướng về ngôn ngữ”(Intention auf die Sprache) như cách nói của Walter Benjamin trong bài “Nhiệm vụ của Dịch giả.” Aris Fioretos t́m thấy trong bài Der Maridian những qui chiếu không những về những nhấn giọng (accents) mà c̣n có cả về tính vật chất của ngôn ngữ có thể coi như một sự nhấn mạnh về bất biến. Chẳng hạn Celan nhắc đến sự kiện “một ai đó nghe, nghe thấy, nh́n…và rồi không biết người ta nói về cái ǵ. Thế nhưng từ nhận xét kẻ nào nghe người phát biểu, “nh́n hắn ta nói,” Celan coi ngôn ngữ như một h́nh thể vật chất và cũng…như hướng đi tới và sinh mệnh. Ở một chỗ khác trong bài thuyết tŕnh này Celan nói tới “ư nghĩa trọng đại của chi tiết, phác họa, cấu trúc, màu sắc và…những rung chấn và những ám chỉ” của bài thơ. Sự chú ư tới khía cạnh không-ư-nghĩa (nonsemantic) này của ngôn ngữ được Celan coi là “h́nh dạng vật chất” và tính chất nghiêm trọng gắn chặt với kư ức được Benjamin đặt tên bằng một từ mới đặt ra (neologism) “Eingedenken/Hồi ức Một”. Trong bài diễn văn Bremen từ “eigedenk sein/hữu hồi ức” được Celan kết nối với một chùm từ xoay quanh “denken/tư tưởng” và “danken/cảm tạ”. Có thể nói mục tiêu chính yếu của Celan trong Der Meridian là nhấn mạnh tới sự quan trọng của hồi tưởng/ức trong khi lật đổ những chủ thuyết thông thường về mối quan hệ giữa bản văn và việc đọc bản văn. Aris Fioretos cho rằng thi pháp của Celan dường như cốt yếu nói tới một sự chạm mặt, hướng tới kẻ/người khác, cần thiết kẻ khác, một đối trọng, cũng như trong bài diễn văn Bremen Celan coi “những bài thơ là trên đường đi tới”, đi tới một cái ǵ đó rộng mở, không thể cư ngụ, một người hay một hữu trên đường đi tới (Unterwegssein) nào đó có thể tiếp cận được. Bài thơ – như trong Der Meridian gián tiếp khẳng định trái ngược với thi pháp cổ điền – là “Immer-noch/Vẫn ở đó”, tức là không hoàn tất một cách triệt để. Sự không hoàn tất này ngoài tính chất đi thẳng đến người khác c̣n khiến nó “trên đường đi tới” trong tương lai. Và đó là nét chính làm cho bài thơ là một bài thơ đúng nghĩa. “Nếu Unterwegssein này cũng ngầm có nghĩa một định-h́nh – một thứ dẫn khởi h́nh thức của thi ca – như thế không chỉ những phác họa và những định h́nh, mà c̣n cả những rung chấn và những gợi ư, một cách có thể luận giải trở thành những yếu tố quyết định của sự định hướng của bài thơ. Về phương diện này, xác định hướng đi tới của việc nói với không mấy quan trọng bằng nhận ra được h́nh và dạng của nó – nói thế khác, “nh́n” bài thơ “nói.”(153)
Dấu vết nhà văn/thi sĩ như độc giả xuất hiện sớm sủa nhất khi Celan luận giải về nhấn giọng trong vở kịch Cái Chết của Danton của Büchner: lời nguyển rủa gằn giọng của Camille với cái gạch ngang (–) đầu câu “–ach, die Kunst!” cho thấy đây là một câu nói trực tiếp và cũng để ghi lại tiếng nói chứ không có ư nghĩa nào khác. Như chính Celan đă phát biểu khi thi ca là “ngôn ngữ của một người trở thành h́nh dạng và, một cách thiết yếu, một sự hiện diện trong hiện tại [Gegenwart und Präsenz] cho nên sự ghi tiếng nói như vậy cũng có nghĩa hơi thở hồi sinh trong tính vật chất của việc chấm câu (materiality of punctuation.) Thế nhưng, theo Aris Fioretos, không phải (–) luôn luôn là dấu hiệu tiếng thở Celan như nói đến trong Der Maridian là “chiều hướng và sinh mệnh”. Chẳng hạn trong một bài thơ Celan viết mấy năm sau bài thuyết tŕnh về Büchner cho thấy (–) không c̣n để chỉ lời nói hiện tại mà để đánh dấu tính vật chất của chính hướng đi tới.
BEIM HAGELKORN , in
Brandigen Mais-
kolben, deheim,
den späten, den harten
Novembersternen gehorsam:
in den Herzfaden die
Gespräche der Würmer geknüpft –:
eine Sehne, von der
deine Pfeilschrift schwirrt,
Schütze. (154)
NGAY SAU TRẬN MƯA ĐÁ, trong
lơi bắp-
bị thiêu rụi, nơi quê nhà,
tuân phục những v́ sao mọc muộn, bền bỉ
của tháng một:
nằm sâu trong sợi tim là những
lời tṛ chuyện của giun –:
dây gân căng thẳng khiến
bản văn-mũi tên của ngươi rung lên,
Sao Nhân Mă.
Aris Fioretos cho rằng bài thơ này chứa đựng ma trận thi luận (poetological matrix) Celan trỉnh bày trong Der Meridian. Người đọc dự phần vào việc viết bài thơ dường như trân ḿnh trước điểm nhọn hướng tới của bài thơ là một hành động khá nguy hiểm. Cũng trong bài thuyết tŕnh này Celan tuyên bố tác giả bài thơ “ở lại với bài thơ” như một thứ “trở về nhà”. Tử vi của Celan dưới cung Nhân Mă nên “tuân phục/vâng lời” những ngôi sao “muộn” của tháng Một (November) là định mệnh trong tương lai như từ Pfeilschrift trong bài thơ cho biết. Tuy nhiên Aris Fioretos cho rằng “Tuy vậy Pfeilschrift riêng của Celan không phải là một h́nh ảnh của một thông báo tiền định mặc dù có tính chất thi ca; nó gần như vuột đi từ một “sợi dây cung” được ghi dấu như một cái gạch ngang trong gịng thứ 7 của bài thơ và đánh dấu điều kiện văn bản của bài thơ một cách tạo h́nh. Ngược lại với cái gạch ngang của Camille, Gedankenstrich này không dính dáng ǵ tới tiếng nói, nhưng vẫn đánh dấu sự mở rộng của thời tính thi ca. Nó là một nét vạch của nhà văn-như độc giả, chỉ ra sự di chuyển như một h́nh thức của gắn liền và gợi ra từ xa từ nguyên của từ tôn giáo. Trong bài “Meridian,” một bản văn trong đó cái gạch ngang có thể được tranh biện nếu như không phải là thường được dùng, nhưng chắc chắn là thứ quan trọng nhất – bởi gắn liền với tranh biện – là dấu chỉ của việc chấm câu, h́nh thức của sự gắn liền này được nói bóng bẩy như “cái nối kết, nó, giống như bài thơ, đưa tới những chạm mặt.”(155) Dùng khái niệm “dấu chỉ dẫn lịch sử của h́nh ảnh” do Walter Benjamin đưa tra trong tác phẩm đồ sộ “Arcades Project/Dự Án Hành Lang” (156) Aris Fioteros cho rằng bản văn của Celan trên đường đi tới tính khả độc chỉ có thể trùng hợp với thời gian đang đi tới và cách phát biểu của tính khả độc này là lời hứa hẹn ở một thời điểm riêng biệt một khi được khởi đầu. Và chỉ ở thời điểm đó, trong một tương lai c̣n bị tŕ hoăn, bản viết không thể kiểm soát th́ điều kiện của việc viết như Benjamin trong luận điểm thượng dẫn đă nói tới. Ở Celan, khi mũi tên thoát đi xuyên vào cuộc tṛ chuyện của loài giun đă cứng lại như một vật th́ cái Pleilschrift/dây gân căng của Celan dường như chứng minh cái chết của ư hường và sự sinh thành của thời gian lịch sử. Thế nên thi sĩ không c̣n làm chủ bài thơ của ḿnh, ư hướng chủ quyền lụn tắt ngay khi bài thơ đi vào lịch sử và được hướng đến một lănh địa hậu thế luôn luôn được lặp lại. “Tính khả độc trong tương lai – mặc dù nguy hiểm và không chắc chắn – được ấn tự trong Pleilschrift như một điều kiện vật chất cho “điểm chuyển động đặc biệt quan trọng” của nó – chỉ theo cách thế này th́ bản viết của mũi tên ở một điểm tới vô tận nào đó mới hóa thành h́nh ảnh đọc mà Benjamin nói tới. Thật vậy, dường như là một sự tiên tri rằng bản viết của Celan, khi được thu gọn lại trong những chữ viết tắt, trở thành PS – một tái bút chỉ đọc được trong khi cái đến Sau Đó là Lúc Này, cái luôn chỉ nghiêm trang của việc đọc Lúc Này.”(157) Căn cứ trên lời kết trong bài Meridian của Celan “Tôi đang đi tới kết thúc, Tôi đang, cùng với giọng nhấn nghiêm nghị, tới kết thúc…Và nơi đây, với hai từ cuối cùng của bài này, tôi phải cẩn thận (muß ich mich in acht nehmen)”, và lời cảnh báo của Celan về sự nguy hiểm của việc đọc dễ dàng an tâm (kommode) Aris Fioteros cho rằng Celan đă đưa ra h́nh ảnh của thực hành đọc-trong-khi viết (practice of reading-while-writing) qua việc chuyển trọng điểm từ những dấu chỉ/hiệu của những đối tượng sang vật tính của chúng.
Sau cùng về dấu gạch ngang: Aris Fioteros nhận xét ư nghĩa của dấu gạch ngang trong bản văn thi ca của Celan chỉ sẵn sàng (available) trong một ngôn ngữ được thể hiện trong đó viết cho cái ǵ riêng tư nhất mà ngôn ngữ này cho nó một tiếng nói, tức là thời gian của nó. Trong Maridian cái được cho tiếng nói đó chính là tro cốt của kẻ khác hoàn toàn (the wholly other).
__________________________________________
(148) Aris Fioretos, Nothing. History and Materiality in Celan, trong Word Traces (do Aris Fioretos chủ biên) trang 295-341: …but they [Celan’s poems] also have a remarkably fluid character which conveys the impression that most of his texts since the 1959 Sprachgitter are written as complex articulatory movements in which the poem’s syntax approaches the swells of breathing, its turns, twists, and sudden pushes.
(149) Sđd trang 295: Indeed, his poetry, in which “the glottal stop” may prove paradoxically to sing, offers one of the most incisive and informed explorations in post-Romantic poetry of a doctrine of literature grounded on the distinction between spirit and letter.
(150) Paul Celan, The Meridian, Final Version – Drafts – Materials. Edited by Bernhard Böschenstein & Heino Schmull, Translated by Pierre Joris, Stanford University Press 2011, trang 8-9 mục 32a &32b. Nguyên bản tiếng Đức GW 3:197/CP 49.
(151) Aris Fioretos, Nothing. History and Materiality in Celan trang 296: To trace the “acute” character of Celan’s own poetry would mean reading the way in which it offers a radicalized conception of the relationship between literature and history at the same time as it “remains as aware of the limits drawn by language as of the possibilities it opens.” This acuity pertains to the intention toward language conventionally attributed to Celan’s poetry – a context in which the texts’ treatment of the relationship between spoken and written language is of particular importance.
(152) Peter Szondi, Poetik der Beständigkeit, bàn Anh văn của Harvey Mendelsohn & Michael Hays The Poetry of Constancy: Paul Celan’s Translation of Shakespeare’s Sonnet 105 trong On textual Understanding and Other Essays, University of Minesota Press 1986, trang 161.
(153) Aris Fioretos, Nothing. History and Materiality in Celan, trang 298: If this Unterwegssein also implies a taking-shape – then outlines and contours, but also tremors and hints, arguably become decisive elements of the poem’s orientation. In this regard, it is less important to determine the direction of the address than to make out its shape and contour – in other words, to “see” the poem “speak.”
(154) Đây là một trong những bài thơ quá “tỉnh lược” của Celan hóa thành tối nghĩa nên những dịch giả sang Anh văn gặp khó khăn và có thể không nắm vững nghĩa các từ và câu trong bài thơ khi dịch. Aris Fioretos dùng bản dịch của Bryan Lynch & Peter Jankowsky (Paul Celan, 65 Poems, Dublin, Raven Arts Press, 1985):
WITH THE HAILSTONE, in
the rust-blighted ear
of maize, at home,
obedient to the late, the hard
Novemberstars:
Woven into your heart-thread, the
conversations of worms –:
a bowstring, from which
your arrow-script whirrs,
archer.
Pierre Joris trong Breathturn into Timestead, The Collected Later Poetry of Paul Celan, nxb Farrar Stauss Giroux, 2014 dịch:
NEXT TO THE HAILSTONE, in
the mildewed corn-
cob, home,
to the late, the hard
November stars obedient:
In the heartthread, the
knit of worm-talk – :
a bowstring, from which
your arrow-script whirrs,
archer.
Jean-Pierre Lefebvre [học tṛ thân thiết của Celan] dịch sang Pháp văn và đưa ra một số dẫn giải hữu ích trong Paul Celan, Renverse du souffle, nxb Seuil 2001, trang 31, chú thích trang 202.
PRÈS DU GRÊLON, dans la
quenouille de maïs
charbonnée, au pays
obeissant aux tardives, aux dures
étoiles de novembre:
noués dans le fil du cœur les
dialogues des vers de terre – :
corde tendue qui fait
vibrer ton texte-flèche,
Sagitaire.
1.Celan làm bài thơ này ngày 8 tháng Một (Novembre) 1963; 2. Bắp hay “lúa ḿ Thổ”, được reo hạt vào hai tháng Tư và Năm và thu hoạch trễ từ tháng 9 tới tháng 11. Sau vụ thu, người ta thấy trên mặt đất những cọng bắp bỏ lại bị đốt cháy bởi một thứ nấm, do “than” (charbon) hay “oxưt sắt” (rouille). Hạt [mưa] đá (grêlon) là một hạt pha lê, một loại ngọc. Xứ sở của thi sĩ là nơi của những kẻ bị bỏ rơi-thiêu đốt trong bài thơ, trong hơi thở pha lê làm nhân chứng. Những câu thơ gậm nhấm những di vật này trong ẩn dụ vượt lên trên ẩn dụ, đó cũng là những con giun của bài thơ: chúng tṛ truyện với những di vật và quấn vào nhau trong sợi dây căng thành cây cung, cũng là dấu hiệu sao [tử vi] từ ngày 22 tháng 11 đến 20 tháng 12 của Celan và làm cho những bài thơ-mũi tên thi sĩ bắn ra một cách riêng biệt, thân thiết rung lên khi muốn; 3. Gehorsam (nghe lời) hơn là một hành cử (comportement) lập tức tuân phục, để chỉ một thái độ nói chung cũng như một thứ tùy thuộc ngoan ngoăn (gehören); 4. Herzfaden (sợi tim) có thể ám chỉ tên của sợi chỉ đó, trong thời gian Quốc xă cai trị, người ta gắn vào áo của học sinh những trường Do thái ở Königsberg vào ngày thứ Sáu cuối cùng trước khi bị đem lưu đầy, để biểu tượng cho mối liên hệ tiếp tục liên kết chúng lại dù cho bị chia cách; 5. Sehne (tendon/gân) cũng để chỉ Sehnsucht ḷng ham muốn nh́n lại xứ sở thời thơ ấu.
Căn cứ trên những giải thích nghĩa của những từ chính trong bài thơ Jean-Pierre Lefebvre đưa ra ở trên ta có thể nhận thấy những bản dịch Anh văn của Bryan Lynch và Pierre Joris dịch theo nghĩa đen của từ. Chẳng hạn. từ Schütze dịch là “archer/ cung thủ” không sai v́ Celan coi thi sĩ như một người bắn cung đặt mũi tên trên cây cung để bắn đi. Tuy nhiên bản dịch Pháp văn của Jean-Pierre Lefebvre đưa ra nhiều chi tiết thú vị giúp người đọc bài thơ có một hiểu biết tường tận hơn về một số từ trong bài thơ.
(155) Aris Fioretos, Nothing. History and Materiality in Celan, trang 300: Yet Celan’s particular Pfeilschrift is not just an image for a fatal – albeit poetic – message; it is quite literally takes off from a “bowstring” inscribed as a dash in the seventh line of the poem and graphically marking its textual condition. In contrast to Camille’s dash, this Gedankenstrich has nothing to do with voice, but nonetheless marks the material extension of poetic temporality. It is a trace of the writer-as-reader, signaling transition as a form of binding and distantly invoking the etymology of religio. In the “Meridian,” a text in which the dash could be argued to be if not the most frequent, then certainly the most important – because argument-bound – marker of punctuation, this form of binding is glossed as “the connective [das Verbindende], which, like the poem, leads to encounters” (GW 3:202/CP 54)
(156) Walter Benjamin cho rằng dấu chỉ dẫn (index) “không chỉ đơn giản nói rằng chúng [những h́nh ảnh] thuộc về một thời gian riêng biệt, mà trên hết dấu chỉ dẫn nói rằng những h́nh ảnh đi vào tính chất khả độc (readability) ở vào một thời gian riêng biệt. Và thật vậy, “việc đi vào tính khả độc” này tạo nên một điểm riêng biệt của chuyển vận ở trong chúng [những h́nh ảnh]…Mỗi cái Lúc Này được xác định bởi những h́nh ảnh đồng đại (synchronic) với nó: bất kỳ cái Lúc Này nào cũng là một Lúc Này của một tính chất nhận biết riêng biệt. Trong nó, sự thật được nạp vào điểm bùng phát với thời gian. Và cái điểm bùng phát này không là ǵ khác hơn cái chết của ư hướng, nó trùng hợp đúng theo sự khai sinh của thời gian lịch sử chính thực.” (Walter Benjamin, Das Passagen-Werk, trang 577-578)
(157) Aris Fioretos, Nothing. History and Materiality in Celan, trang 301: Future legibility – albeit dangerous and uncertain – is inscribed in the Pfeilschrift as the material condition for its “specific critical point of movement” – only in this manner may the script of the arrow at some infinite point turn into that read image of which Benjamin writes. Indeed, it seems like a premonition that Celan’s script, when contracted to its initials, becomes PS – a postscript legible only in that coming After which is the Now, the always only acute Now, of reading.
(c̣n tiếp)
đào trung đạo
http://www.gio-o.com/DaoTrungDao.html
© gio-o.com 2016