đào trung đạo
thi sĩ / thi ca
(97)
Kỳ 1, Kỳ 2, Kỳ 3, Kỳ 4, Kỳ 5, Kỳ 6, Kỳ 7, Kỳ 8, Kỳ 9, Kỳ 10, Kỳ 11, Kỳ 12, Kỳ 13, Kỳ 14, Kỳ 15, Kỳ 16, Kỳ 17, Kỳ 18, Kỳ 19, Kỳ 20, Kỳ 21, Kỳ 22, Kỳ 23, Kỳ 24, Kỳ 25, Kỳ 26, Kỳ 27, Kỳ 28, Kỳ 29, Kỳ 30, Kỳ 31, Kỳ 32, Kỳ 33, Kỳ 34, Kỳ 35, Kỳ 36, Kỳ 37, Kỳ 38, Kỳ 39, Kỳ 40, Kỳ 41, Kỳ 42, Kỳ 43, Kỳ 44, Kỳ 45, Kỳ 46, Kỳ 47, Kỳ 48, Kỳ 49, Kỳ 50, Kỳ 51, Kỳ 52, Kỳ 53, Kỳ 54, Kỳ 55, Kỳ 56, Kỳ 57, Kỳ 58, Kỳ 59, Kỳ 60, Kỳ 61, Kỳ 62, Kỳ 63, Kỳ 64, Kỳ 65, Kỳ 66, Kỳ 67, Kỳ 68, Kỳ 68,Kỳ 66, Kỳ 69, Kỳ 70, Kỳ 71, Kỳ 72, Kỳ 73, Kỳ 74, Kỳ 75, Kỳ 76, Kỳ 77, Kỳ 78, Kỳ 79, Kỳ 80, Kỳ 81, Kỳ 82, Kỳ 83, Kỳ 84, Kỳ 85, Kỳ 86, Kỳ 87, Kỳ 88, Kỳ 89, Kỳ 90, Kỳ 91, Kỳ 92, Kỳ 93, Kỳ 94, Kỳ 95, Kỳ 96, Kỳ 97,
GIUSEPPE UNGARETTI
Chương II
Thi pháp và Thi ca của Ungaretti
Allegria có cấu trúc năm phần (gồm 5 tập thơ gộp lại) : Phần thứ nhất Ultime/Chót cùng (Philippe Jaccottet dịch là Fin du premier temps) gồm những bài thơ viết vào thời kẻ du cư trong chuyến hải hành lìa xa quê nhà qua Âu châu bỏ lại đằng sau tất cả những gì thân yêu yêu như gia đình, bè bạn... cặp mắt hướng về một tương lai mù mịt như một thế giới sương mù bao phủ, chỉ còn niềm im lặng và nỗi cô đơn. Phần thứ nhì Il porto sepolto (lần đầu xuất bản riêng rẽ vào năm 1916 do sự khuyến khích và hỗ trợ của Ettore Serra vốn là trung úy thượng cấp của Giuseppe Ungaretti ở căn cứ Carso) gồm hầu hết những bài thơ Ungaretti viết ở Carso trong giai đoạn này. “Hải cảng chìm lấp” có nghĩa gì? Nó có thể gợi ra chính thi sĩ được hình dung trong cuộc phiêu lưu buồn bã thời chiến tranh? Hay đó chính là mặt trận ở Carso với cái chết vây bủa, ám ảnh? Hay đó là hình ảnh phóng chiếu thân phận thi sĩ lưu đầy? Phần thứ ba Naufragi/Đắm tàu với bài mở đầu Allegria di naufragi cho thấy thi sĩ lưu đầy kẻ sống sót tiếp tục cuộc hành trình, với những bài thơ kế tiếp ghi lại nỗi cô đơn sống nơi xứ người, cuộc sống trống rỗng, nhìn về nẻo xa (tương lai) lạc lõng như kẻ mù lòa, thấy mình tái sinh – là một tổng hợp mới – pha trộn bản chất những con người nơi đất khách, bị bỏ rơi trong cái bất tận, trải nghiệm những đêm tối những sớm mai đậm màu hồi tưởng. Phần thứ tư Girovago/Kẻ lang bạt với những bài khởi hứng từ sau khi tham dự cuộc chiến, phần lớn được viết khi Ungaretti ở Pháp nhưng “Không có góc nào trên trái đất, tôi có thể xây cất căn nhà của tôi.” Phần thứ năm Prime/Những khởi đầu mới có thể coi như phần khép lại Allegria với hơi thơ nhẹ nhàng, bớt căng thẳng, cho thấy đây là giai đoạn nghỉ ngơi, kẻ lang thang đã quá mỏi mệt sau khi trải qua những khổ đau dường như vô tận. Tuy nhiên Ungaretti không cho thấy có ảo tưởng về sự chiến tranh sẽ chấm dứt trong tương lai tuy hiện thời cuộc chiến đã chấm dứt. Thi sĩ kẻ sống sót tìm thấy lại những kỷ niệm thân thương, dường như được bao bọc bởi “ánh sáng không trọng lượng.” Ngoại trừ những bài thơ trong phần Ultime và Prime tất cả những bài khác trong tập Allegria đều được Ungaretti ghi ngày viết cho nên tập thơ này thoạt nhìn như có dáng dấp của nhật ký nhưng thật ra Ungaretti có chủ đích và chủ đề khác hơn là sự ghi nhận những biến cố, những tình càm sống trải hàng ngày. Chủ đích và chủ đề đó là: nói về thi ca.
Đọc Allegria chúng ta có thể tìm thấy dấu vết cuộc hành trình của du cư Ungaretti từ Alexandria Ai Cập qua Ý rồi sang Pháp, dừng chân ở Versailles ngay sau đó lại quay trở lại Ý tham dự cuộc chiến tranh Ý-Áo năm 1914 ở Carso. Chuyến du hành tàu thủy được Ungaretti kể lại trong bài thơ Levante [18]: kẻ ly hương trong cuộc hải hành hoài niệm về quê cũ và trong bài Lucques Ungaretti nói về lòng hoài hương này: “Ở quê tôi, bên Ai Cập, sau bữa ăn tối, là đọc kinh, mẹ tôi kể cho chúng tôi nghe về những nơi chốn đó. Tuổi thơ của tôi từ đó hoàn toàn được đánh thức.” Một trong những đặc điểm trong tập thơ này là thái độ thị quang (attitude optique) của Ungaretti: cô lập đối tượng thị giác và màu sắc qua kinh nghiệm về sa mạc, đối tượng tri giác được định hình trên cái nền sa mạc thật rõ rệt, và được phóng chiếu về phía trước cũng như được bảo vệ bởi không gian vây quanh. Chiều kích con người như sự khổ đau, chờ đợi trong hoàn cảnh ly hương lưu đầy khiến tình cảm bị cô lập, như thể bị bóc trần. Thi ca Ungaretti đưa những chuyển động của tâm hồn và kết hôn chúng trong chiều kích của phong cảnh. Khi Ungaretti nói tới “ảo ảnh” (mirage), “ốc đảo” (oasis) thì đó là những ý niệm (concepts), những chọn lựa cách nói nảy sinh từ quan sát sự đứt rời (rupture) của phong cảnh Carso: “Chính sương mù che chúng ta/Rất có thể một con sông bắt nguồn ở đây/Tôi nghe thấy tiếng hát của những nữ thủy thần/ của cái hồ trước đây là thành phố.” Nhịp điệu thơ xuôi chảy như trong bài “Những dòng sông của tôi.” Trong Allegria Ungaretti cho thấy mình là kẻ lưu đầy muôn thuở, một đơn tử (nomade) lang thang khắp nơi trên mặt đất nhưng sau cùng đã định được, đã tìm thấy bản thân. Thế nên thơ của Ungaretti đậm đặc cảm tính ngay cả khi sự trầm tư lọc cảm tính này hay thu giảm cảm tính vào “tinh túy” (quintessence) để đưa vào thơ. Ungaretti là lãnh tụ phong trào thi ca bí ẩn Ý thế kỷ 20 chủ trương xóa bỏ lý trí trong thi ca. Mùa màng của Allegria có ba tương quan: tương quan với cảnh sắc thế giới, tương quan với hoàn cảnh tình cảm, và tương quan với thân phận con người trong thời đại tan hoang nhằm đưa ra một thông điệp đạo đức. Đó là tiếng thơ trần trụi, đoạn rời của một kẻ lưu đầy tuy đã trải qua nhiều khổ đau nhưng vẫn cưu mang niềm hy vọng vào sự cải thiện phận người.Về hình thức thi ca đó biểu đạt sự trăn trở nội tâm không nguôi trong việc tìm ra một hình thức ngôn ngữ khả hữu như Ungaretti trong bài Những dòng sông của tôi cho thấy: “Sự trăn trở của tôi/chính khi nào/tôi không thấy mình/hòa đồng.” Nghĩa là không tìm được sự đồng nhất giữa ngôn ngữ thi ca với cảm thức, tư tưởng về thế giới.
________________________________________
[18] LEVANTE
La linea
vaporasa moure
al lontano cerchio del cielo
Picchi di tacchi picchi di mani
e il clarino ghirigori striduli
e il ma è cererino
trema dolce inquieto
come un piccione
A poppa emigranti soriani ballano
A prua un giovane è solo
Di sabato sera a quest’ora
Ebrei
laggiù
portano via
i loro morti
nell’imbuto di chiocciola
tentennamenti
di vicoli
di lumi
Confusa acqua
come il chiasso di poppa che odo
dentrom l’ombra
del
sonno
CẬN ĐÔNG
Đường vạch
bốc hơi biến mất
nơi vòng trời xa tắp
Gót giầy lách cách tay vỗ lốp bốp
và tiếng kèn clarinette the thé uốn lượn
và biển tro
run rẩy nhẹ khôn nguôi
như một con bồ câu
Những di dân người Syria khiêu vũ ở phía đuôi tầu
Ở đầu tầu một người trẻ tuổi đứng một mình
Vào giờ này chiều thứ bảy
những người Do thái
dưới kia
di chuyền
những người đã chết của họ
vào trong lỗ ống khói tối tăm
chập chờn
của những lối đi
của ánh mờ
Nước sủi đục ngầu
như tiếng đuôi tầu tôi nghe thấy
trong bóng tối
của
giấc ngủ
(còn tiếp)
đào trung đạo
http://www.gio-o.com/DaoTrungDao.html
© gio-o.com 2018