đào trung đạo
thi sĩ / thi ca
(82)
RENÉ CHAR
Kỳ 1, Kỳ 2, Kỳ 3, Kỳ 4, Kỳ 5, Kỳ 6, Kỳ 7, Kỳ 8, Kỳ 9, Kỳ 10, Kỳ 11, Kỳ 12, Kỳ 13, Kỳ 14, Kỳ 15, Kỳ 16, Kỳ 17, Kỳ 18, Kỳ 19, Kỳ 20, Kỳ 21, Kỳ 22, Kỳ 23, Kỳ 24, Kỳ 25, Kỳ 26, Kỳ 27, Kỳ 28, Kỳ 29, Kỳ 30, Kỳ 31, Kỳ 32, Kỳ 33, Kỳ 34, Kỳ 35, Kỳ 36, Kỳ 37, Kỳ 38, Kỳ 39, Kỳ 40, Kỳ 41, Kỳ 42, Kỳ 43, Kỳ 44, Kỳ 45, Kỳ 46, Kỳ 47, Kỳ 48, Kỳ 49, Kỳ 50, Kỳ 51, Kỳ 52, Kỳ 53, Kỳ 54, Kỳ 55, Kỳ 56, Kỳ 57, Kỳ 58, Kỳ 59, Kỳ 60, Kỳ 61, Kỳ 62, Kỳ 63, Kỳ 64, Kỳ 65, Kỳ 66, Kỳ 67, Kỳ 68, Kỳ 68,Kỳ 66, Kỳ 69, Kỳ 70, Kỳ 71, Kỳ 72, Kỳ 73, Kỳ 74, Kỳ 75, Kỳ 76, Kỳ 77, Kỳ 78, Kỳ 79, Kỳ 80, Kỳ 81, Kỳ 82,
Một vài vấn đề văn chương quanh René Char
2. Những thể thơ René Char sử dụng
Đây là một chủ đề khá bao quát nên chỉ xin đưa ra một số ghi nhận tóm lược về cách René Char sử dụng cũng như cách tân những thể thơ. Về tiến trình sáng tạo nội tại thi ca của René Char chúng ta có thể tham khảo tác phẩm đồ sộ và xuất sắc của Jean-Claude Mathieu [295] và những diễn giải tóm lược của Mary Ann Caws[296]. Ở vào thời điểm Char xuất hiện trên thi đàn Pháp có thể nói lịch sử các hình thức, thể thơ có vần điệu coi như đã hoàn tất, ổn định trong một thời gian khá dài. Câu thơ (vers) không còn được coi là mũi tên chỉ hướng dẫn tới cách mạng thi ca. Theo nhận định chung về thơ có vần điệu René Char không phải là người cách tân cũng như đa số những thi sĩ tầm vóc khác kể từ phong trào lãng mạn cho tới Appolinaire và Reverdy. Thế nhưng,với thơ xuôi (poème en prose) và nhất là thơ đoạn rời René Char đã đóng một vai trò quan trọng, có tính cách quyết định trong lịch sử nhưng thể thơ này ở Pháp từ sau thế chiến thứ nhì kết thúc. Trên hết là quyết định của Char coi thơ xuôi và thơ đoạn rời là những hình thức chính yếu của thi ca hiện đại. Michel Murat cho rằng [297] “cuộc khủng hoảng câu thơ” (la crise des vers) ở Pháp diễn ra theo ba giai đoạn: giai đoạn đảo nghịch câu thơ có vần điệu truyền thống với Baudelaire, Rimbaud, và Laforgue đồng thời với việc mở rộng những khả hữu của thể thơ này với Verlaine; giai đoạn phá bỏ qui củ (dérèglementation) và tạo đa dạng (polymorphe) của phong trào tượng trưng; và sau cùng là giai đoạn ổn định xoay quanh “mẫu mực” (standard) như cách thẩm định của Jacques Roubaud: câu thơ theo thể tự do không có chấm câu nhưng kết hợp với nhau được Appolinaire và phần đông các thi sĩ tiền phong (l’avant-garde) sử dụng. Cũng phải kể tới những tìm kiếm của Reverdy trong nỗ lực khai mở một hướng đi khác sau bài thơ Coup de dés của Mallarmé, sắp đặt lại cú pháp bài thơ trong không gian trang giấy và cho vào đó cấu trúc nhịp điệu. Nhưng sau đó Reverdy cũng từ bỏ cách làm thơ kiểu này vì không được ủng hộ. Cũng theo Murat, khi Char trưởng thành thì: thứ nhất, thơ tự do đã hoàn toàn tự trị, bỏ hẳn nhịp điệu (la rime), việc “cương thêm tùy thích” (ad libitum) hay lập lại theo thông lệ của lời thơ; thứ nhì, phá bỏ cấu trúc nhịp điệu đã hoàn tất, thi sĩ ưa chuộng khai triển câu thơ không có nhịp điệu (vers non rimé) có khả năng biến thái theo lược đồ căn bản được tổ chức thành chuỗi hay theo cách trình bày những khổ/đoạn thơ (strophes) trên trang giấy như kiểu của Éluard trong bài thơ Mourir de ne pas mourir: “À l’ombre des arbres/ Comme au temps des miracles,/Au milieu des hommes/Comme la plus belle femme/Sans regrets, sans honte,/ J’ai quitté le monde./– Qu’avez-vous vu?/ – Une femme jeune, grande et belle/En robe noire très décolletée.” ; thứ ba, một cách tổng quát, việc phá bỏ qui củ cũng tạo sự cạnh tranh giữa những hình thức câu thơ, và vấn đề làm sao để những hình thức khác nhau này trở thành có thể đứng với nhau. Câu thơ theo thể tự do chuẩn và câu thơ tân-cổ điển như của Valéry ở vào vị trí hai cực của một chuỗi liên tục những hình thức hầu như luân phiên, có vần điệu hay liên vận. Thật ra nhịp điệu thả nổi (métrique flottante) này chỉ là nhịp điệu được đơn giản hóa để thích ứng với những hình thức căn bản và được sử dụng một cách cố định nhưng không cưỡng ép; sau chót, Breton và những thi sĩ siêu thực đã sử dụng thơ tự do như một cách để điều hòa ngôn ngữ tự động, tạo thành một giọng điệu mới. Char tuy ban đầu theo Siêu thực nhưng không làm thơ theo cách này. Việc René Char cũng như những thi sĩ cùng thời chọn sử dụng những hình thức câu thơ có ý hướng thẩm mỹ hơn là lật đổ những qui củ đã được thiết định. Char tương tự như Éluard sử dụng cùng lúc trong một tập thơ cả thơ tự do – tuy chiếm đa số các bài thơ trong cùng một tập – lẫn những bài thơ ngắn có giọng điệu khác nhau và những bài thơ với các câu thơ gần như đều đặn thường không có vần điệu. Ngay trong tập Dehors la nuit est gouvernée Char tuy sử dụng lối thơ alexandrin (câu thơ có 12 âm tiết/chân) ở bài Remise nhưng bài thơ kế tiếp Validité lại là một bài thơ xuôi.[298] Trong văn cảnh của tập thơ thì việc thay đổi kiểu thơ như vậy không có mấy ý nghĩa vì không nói lên có tiến triển nào về hình thức bài thơ.
Những tuyển tập thơ của René Char cho thấy sự pha trộn dàn trải những bài thơ được viết theo nhiều thể khác nhau. Sự dàn trải này không liên quan gì tới lịch sử , thời điểm sáng tác mỗi bài (tuy René Char cũng cho biết giai đoạn sáng tác những tập thơ này trải dài từ năm nào tới năm nào) hay chỉ dấu chiều hướng chọn lựa thể thơ của chúng. Tuy nhiên sự phân phối khối lượng lớn các bài thơ cũng cho thấy Char có ý định đưa ra một sự xếp đặt theo trật tự trên dưới (hiérarchie) – nhất là trong tập Fureur et Mystère với ưu thế dành cho những bài thơ có hình thức không vần điệu, thơ xuôi, thơ đoạn rời hơn là cho thơ vần điệu. Michel Murat cho rằng không cần thiết làm bảng tổng kê đầy đủ những hình thức, thể thơ René Char đã sử dụng. Vả lại nếu có bản thống kê này ta sẽ dễ nhận ra giữa Char và Éluard có sự trùng lấp, tương cận về thể loại thơ giữa hai thi sĩ này. Chẳng hạn tập Arsenal của Char và tập L’Amour de la poésie của Éluard có sự tương cận sau đây: cả hai đều có giọng điệu chính (tonalité principale) do những đơn vị là những câu thơ ngắn vốn nằm trong ký ức về nhịp điệu tạo nên và luôn có chức năng tái kích hoạt (réactiver) hay hủy kích hoạt (déactiver). Ở giai đoạn thơ tự do ngự trị thì hình thức câu thơ được thi sĩ sáng tạo chỉ ra nét riêng biệt của mỗi thi sĩ. Với Breton câu thơ là việc tạo chấm câu cho lời nói như chính Breton tuyên bố trong Manifeste du surréalisme việc chấm câu“giống như phân phối những nút thắt trên một sợi dây rung chuyển ( pareil à “la distribution des nœuds sur une corde vibrante”). Trong khi đó với Éluard bài thơ tựa như một bó củi gồm những “thanh củi” (copeaux) được bó lại tùy theo ký ức thi sĩ, và những từ ưa thích được kết nối ở những vị trí giống như cách người thợ hồ xây tường. Với Char, như trong tập Arsénal cho thấy, có sự canh tân độc đáo trong việc cắt rời câu thơ. Việc cắt/ngắt này tương tự chuyển động bập bềnh của bầu trời như trong khổ thơ cuối của bài Possible (trong tập Arsenal) cho thấy: “Mais le ciel bascula/Si vite/Que l’aigle sur la montage/Eut la tête tranchée.” Trong cùng bài thơ này việc cắt/ngắt câu thơ “il parla comme on tue le fauve ou la pitié” tạo thành chuỗi biến khúc được Char dùng ở những bài thơ khác như Jean-Claude Mathieu chỉ ra.[299] : “Il parla/Comme on tue la fauve/Ou la pitié”[Méridiens]; “Il parla comme on tue le fauve/Ou la pitié” [Arsenal]; “Il parla/Comme on tue/le fauve/Ou/La pitié [Le Marteau sans Maître, ấn bản 1934]; “Il parla comme on tue/Le fauve/Ou la pitié” [Le Marteau sans Maître, ấn bản 1945]. Cách cắt/ngắt câu thơ và lại dùng chấm câu của Char này là một cách tân thi ca độc đáo thấy rõ nhất là trong bài Le Visage nuptial. Cách ngắt câu thơ của Char chỉ ra nhưng quyết định lần lượt tách rời cách nói thông thường “tuer le fauve” để tạo một đồng nhất (identité) mới “on parla comme on tue”. Để đối trọng việc ngắt câu này Char dùng những khoảng trống như trong bài L’Amour vỏn vẹn chỉ có 2 câu :” Être/Le premier venu.” Khi cho chấm câu vào câu thơ tự do (vers libre) và để khoảng trống giữa những câu thơ dài ngắn không bằng nhau làm biến đổi cấu trúc bài thơ. Khoảng trống (blanc) trong bài thơ trải rộng ra như cái giường. Cách làm này của Char là một hành vi sáng tạo. Tuy trong thơ tự do câu thơ không hiện hữu trước nhưng tùy theo quyết định của thi sĩ là người có khả năng nối kết hay tháo rời những câu thơ. Thế nhưng những thi sĩ tượng trưng và hiện đại lại tỏ ra thận trọng trong việc vắt dòng (enjambement) này. Khác với Arsenal trong tập Marteau sans Maître Char mở rộng giới hạn câu thơ ra ngoài khá xa khỏi vùng nhịp điệu (zone métrique), tạo những khoảng chia cách (écarts) lớn có chiều kích tương ứng với việc biến đổi tiêu điểm (focalisation), những cấu thức phức tạp qua việc tạo mối liên hệ phụ thuộc của những câu thơ (mệnh đề) (hypotaxe) hay ngắt thành đoạn rời bằng dấu chấm hay bằng những tỉnh lược (ellipses) luân phiên với những đoạn thơ đẳng lập (parataxiques) tạo thành nhưng chuỗi câu thơ (laisses) trong bài thơ như bài Confronts trong tập Marteau sans Maître hay bài Confins trong tập Dehors la nuit est governée.[299]
Sáng kiến đưa việc chấm câu (ponctuation) trở lại trong thơ tự do trong bài Le Visage nuptial của Char được Jean-Claude Mathieu [300] diễn giải rất thú vị: trước hết, theo Jean-Claude Mathieu đó là một bài thơ “đầy” nhất trong tác phẩm của Char. Bài thơ “một hơi” trong một thể xác “được cứu sống” (“un corps sauvé” như trong câu thơ áp chót) với nhịp điệu của ngôn ngữ tập hợp thành một chùm những hình ảnh phù du (une constellation d’images fugitives) xoay quanh một khuôn mặt.
________________________________________
[295] Jean-Claude Mathieu, La Poésie de René Char, 2vols, José Corti 1984.
[296] Mary Ann Caws, The Presence of René Char, Princeton University Press 1976.
[297] Michel Murat, Char dans l’Histoire des Formes in René Char en son siècle trang 133-143.
[298]
Bài REMISE
Laissez filer les guides maintenant, c’est la plaine
Il gèle à la frontière chaque branche l’indique
Un tournant va surgir prompt comme une fumée
Où flottera bonjour arqué comme une écharde
L’angoisse de faiblir sous l’écorce respire
Le couvert sera mis autour de la margelle
Des êtres bienveillants se porteront vers nous
La main à votre front sera froide d’étoiles
Et pas un souvenir de couteau sur les herbes
Non, le bruit de l’oubli là serait tel
Qu’il corromprait la vertu du sang et de la cendre
Ligués à mon chevet contre la pauvreté
Qui n’entend que son pas n’admire que sa vue
Dans l’eau morte de son ombre
Giờ hãy buông lỏng dây cương, đồng bằng đây rồi
Nơi biên giới buốt lạnh, mỗi cành cây cho biêt thế
Một khúc quanh lập tức sẽ hiện ra như một đám khói
Ở đó lời chào đón sẽ bồng bềnh uốn cong như mảnh nhọn đột nhiên cắm vào da thịt
Nỗi xao xuyến lịm tắt của hơi thở dưới vỏ cây
Bàn ăn sẽ được đặt quanh miệng giếng nước
Những người rộng lượng sẽ tới gần chúng ta
Bàn tay đặt trên trán em sẽ lạnh lẽo với những ngôi sao
Và chẳng có một kỷ niệm nào về một con dao nằm trên cỏ
Không, tiếng động của lãng quên nơi đó sẽ thế thôi
Dù hủy hoại đức tính của máu và của tro
Gắn chặt nhau ở chỗ giường anh đối nghịch sự nghèo khổ
Chỉ nghe thấy bước chân nó mà em chỉ ngưỡng mộ những dáng vẻ
Trong vũng nước đọng bóng hình của nó
[299]
CONFRONTS
Dans le just milieu de la roche et du sable de l’eau et du feu des cris et du silence universels
Parfait comme l’or
Le spectacle de ciment de la Beauté clouée
Chantage
Dehors
La terre s’ouvre
L’homme est tué
L’air se referme
.........................................
CONFINS
De cette peau tendue sur un cerceau d’espérance batie d’un souffle et que colore d’air hagard l’étude des jalousies
Je retiens de ce fluide qui se desserre me tourmente par un foulage de buées sans entrailles comme dans cette conjecture de la dégradation du
Chasseur répétée par le papier à fleurs d’une minime chambre
Clarté frugale un bien limpide à l’instant de la pause
Chemise prête au vœu de vêtir une larme
Pour composer la plus inocupée des routes
Sera-ce toujours tout bénifice au conservateur du phrase le calendrier mis en pièces après quelque naufrage hilarant
L’homme accroupi sur les cendres infidèles a progressé par cicatrices et monté la somme de ses pas à travers le filtre feint de son dépaysement
Crasse!
..........................................
Bài POSSIBLE:
Dès qu’il en eut la certitude
À coup de serrements de gorge
Il facilita la parole
Elle jouait sur les illustrés à quatre sous
Il parla comme on tue
Le fauve
Ou la pitié
Ses doigts touchèrent l’autre rive
Mais le ciel bascula
Si vite
Que l’aigle sur la montage
Eut la tête tranchée.
[300] Jean-Claude Mathieu, sđd trang 81-87.
LE VISAGE NUPTIAL
À présent disparais, mon escorte, debout dans la distance;
La douceur du nombre vient de se détruire.
Congé à vous, mes alliés, mes violents, mes indices.
Tout vous entraîne, tristesse obséquieuse.
J’aime.
L’eau est lourde à un jour de la source.
La parcelle vermeille franchit ses lentes branches à ton front, dimension rassurée.
Et moi semblable à toi,
Avec la paille en fleur au bord du ciel criant ton nom,
J’abats les vestiges,
Atteint, sain de clarté
Ceinture de vapeur, multitude assouplie, diviseurs de la crainte, touché
ma renaissance.
Parois de ma durée, je renonce à l’assistance de ma largeur vénielle;
Je boise l’expédient du gîte, j’entrave la primeur des survies.
Embrassé de solitude foraine,
J’évoque la nage sur l’ombre de sa Présence.
Le corps désert, hostile à son mélange, hier, était revenue parlant noir.
Déclin, ne te ravise pas, tombe ta massue de trances, aigre sommeil.
Le décolleté diminue les ossements de ton exil, de ton escrime;
Tu rends fraîche la servitude qui se dévore le dos;
Risée de la nuit, arrête ce charroi lugubre
De voix vitreuses, de departs lapidés.
Tôt soustraît au flux des lésions inventives
(La pioche de l’aigle lance haut le sang évasé)
Sur un destin présent j’ai mené mes franchises
Vers l’azur multivalve, la granitique dissidence.
Ô voûte d’effusion sur la couronne de son ventre,
Murmure de dot noire!
Ô mouvement tari de sa diction!
Nativité, guidez les insoumis, qu’ils découvrent leur base,
L’amande croyable au lendemain neuf.
Le soir a fermé sa plaie de corsaire où voyageaient les fusées va
parmi la peur soutenue des chiens.
Au passé les micas du deuil sur ton visage.
Vitre inextinguible: mon souffle affleurait déjà l’amitié de ta blessure,
Armait ta royauté inapparente.
Et des lèvres du brouilard descendit notre plaisir au seuil de dune, au toit d’acier.
La conscience augmentait l’appareil frémissant de ta permanence;
La simplicité fidèle s’étendit partout.
Timbre de la devise matinale, morte-saison de l’étoile précoce,
Je cours au terme de mon cintre, colisée fossoyé.
Assez baisé le crin nubile des céréales
La cardeuse, l’opiniâtre, nos confins la soumettent
Assez maudit le havre des simulacres nuptiaux:
Je touche le fond d’un retour compact.
Ruisseaux, neume des morts anfractueux,
Vous qui suivez le ciel aride,
Mêlez votre acheminement aux orages de qui sut guérir de la desertion,
Donnant contre vos études salubres.
Au sein du toit le pain suffoque à porter cœur et lueur.
Prends, ma Pensée, la fleur de ma main pénétrable,
Sens s’éveiller l’obscure plantation.
Je ne verrai pas tes flancs, ces essaims de faim, se dessécher, s’emplir de ronces;
Je ne verrai pas l’ampuse te succéder dans ta serre;
Je ne verrai pas l’approche des baladins inquiéter le jour renaissant;
Je ne verrai pas la race de notre liberté servilement se suffire.
Chimères, nous sommes montés au plateau.
Le silex frissonnait sous les sarments de l’espace;
La parole, lasse de défoncer, buvait au débarcadère angélique.
Nulle farouche survivance:
L’horizon des routes jusqu’à l’afflux de rosée,
L’intime dénouement de l’irréparable.
Voici le sable mort, voice le corps sauvé:
La Femme respire, l’Homme se tient debout.
KHUÔN MẶT TÂN HÔN
Giờ đây kẻ hộ tống của ta, đứng nơi xa xa, biến dạng;
Sự dịu dàng của con số vừa tự hủy.
Hỡi những kẻ chung đường, những kẻ hung bạo, những kẻ chỉ đường của ta,
ta cho các ngươi nghỉ phép.
Tất cả đều lôi các ngươi đi chỗ khác, nỗi buồn xu nịnh.
Ta đang yêu.
Vào một ngày nước từ nguồn chĩu nặng.
Tán lá đỏ thắm từ từ nhảy qua những cành chậm của nó tới vầng trán em,
Và anh, cũng như em,
Bằng cọng rơm nở hoa cuối trời réo gọi tên em,
Anh đốn hạ những dấu tích,
Xong xuôi, mạnh khỏe thấy rõ.
Vòng đai hơi nước, những sợ hãi ngăn chia , phần nhiều đã giảm, em hãy
chạm tay vào sự tái sinh của anh.
Vách ngăn giòng thời gian của anh, anh từ chối sự giúp đỡ bao lầm lỗi
có thể tha thứ của anh ;
Anh lập tức chống nâng nơi cư ngụ, anh cản ngăn những tồn tại sớm kết trái.
Cháy bỏng bởi cô đơn lưu động,
Anh gợi ra việc bơi trên bóng sự Hiện diện của nàng.
Hôm qua, thân xác sa mạc, thù nghịch chung chạ, đã trở lại nói năng mơ hồ.
Hỡi tàn vong, đừng có ngưng chuyển động, hãy buông cái dùi cui động kinh
xuống, giấc ngủ cay mắt.
Áo hở vai làm giảm xương cốt lưu đầy, sức giao đấu của ngươi;
Ngươi làm mới cưỡng chống tự hủy;
Hỡi gió đêm thoảng qua, hãy chặn lại chuyến xe tang
Của những tiếng nói lồng kiếng, của những khởi hành bị ném đá.
Chẳng bao lâu nữa thoát khỏi những vết thương bày đặt
(Móng vuốt chim ưng tung cao máu loang tràn)
Trên một định mệnh hiện thời anh đã dẫn những ngay thực của mình
Đi về phía bầu trời xanh nhiều khoang, về phía sự bất đồng đá cứng.
Ôi sự dạt dào dâng cao trên vòm bụng nàng,
Tiếng thầm thì của hồi môn đen!
Ôi chuyển động mệt mỏi của lời nàng nói!
Sự sinh sản, hãy dẫn dắt những kẻ bất tuân phục, chúng có thể khám phá
ra nền của chúng,
Quả hạnh nhân có thể tin vào ngày mới.
Buổi chiều đã khép lại vết thương sâu nơi những hỏa tiễn bay liệng
giữa nỗi sợ hãi nặng chĩu.
Hãy ném vào quá khứ những tấm khăn tang trong suốt trên khuôn mặt em.
Hỡi ô cửa kính khôn nguôi: hơi thở anh đã lướt trên tình bạn tổn thương của em,
Trang bị cho vương quyền kín đáo của em.
Và những làn môi sương mù hạ thấp mấp mé, sát mái sự khoái lạc của chúng ta.
Ý thức tăng thêm dẫy trang sức run rẩy của sự luôn có mặt của em;
Đơn giản trung thành trải rộng khắp nơi.
Tiếng ngân nga của câu chúc tụng ban mai, mùa-chết của sao sớm,
Anh chạy hết vòm cung của mình, đại quảng trường mộ địa.
Đã hôn đủ lâu cuống lúa đương thì:
Ôi cọng bướng bỉnh, sải tay chúng mình buộc nó qui phục.
Nguyền rủa quá đủ nơi ẩn náu của những giả hình tân hôn:
Anh chạm tay vào đáy sâu của một trở lại bền bỉ.
Hỡi suối, hồn thiêng của nhưng kẻ đã chết vì bị hành hạ,
Các ngươi những kẻ đi theo bầu trời cằn cỗi,
Hãy trộn lẫn đường đi của các ngươi vào giông bão của kẻ biết
chữa lành sự đào thoát,
Phản đối những sưu khảo cứu chữa.
Ngay giữa mái nhà bánh mì ngộp thở vì mang vác trái tim và ánh mờ.
Hỡi tư tưởng của ta, hãy cầm lấy bông hoa của bàn tay có thể xuyên thấu của ta,
Hãy cảm nhận việc trồng trọt tối tăm thức giấc.
Ta sẽ chẳng nhìn cạnh sườn ngươi, hỡi đám người chết đói này, lũ khô héo,
gai góc đầy mình;
Ta sẽ chẳng nhìn con bọ ngựa thay thế ngươi trong căn nhà kính trồng hoa của ngươi;
Ta sẽ chẳng nhìn bọn hát rong tới gần làm rộn ngày tái sinh;
Ta sẽ chẳng nhìn cuộc chạy đua của tự do tự lệ thuộc của chúng ta.
Hỡi quỉ dữ, chúng ta đã trèo lên cao nguyên.
Đá cứng đã run rẩy dưới những chùm dây leo của không gian;
Lời nói, mệt nhoài để thông suốt, đã giải khát ở vịnh thiên thần.
Không có sự sống sót hoang dã nào:
Đường chân trời của những con đường đến tận giòng chảy thanh xuân,
Sự cởi bỏ thiết thân của cái không thể sửa chữa.
Đây là cát chết, đây là thân xác đã được cứu sống:
Người Đàn bà hít thở, người Đàn ông đứng thẳng.
(còn tiếp)
đào trung đạo
http://www.gio-o.com/DaoTrungDao.html
© gio-o.com 2017