ĐÀO TRUNG ĐẠO
thi sĩ / thi ca
(9)
Kỳ 1, Kỳ 2, Kỳ 3, Kỳ 4, Kỳ 5, Kỳ 6, Kỳ 7, Kỳ 8, Kỳ 9,
Đồng hồ và nhẫn/ṿng trong bài thơ Chymisch/Hóa (44) của Celan rất gần nhau. Nhẫn thức giấc trên ngón tay và ngón tay cũng là nhẫn như câu thơ đầu tiên của Celan trong tập Die Niemandsrose: Es war Erde in ihnen…/Có trái đất trong chúng…và Derrida giải thích: “Nhưng trên hết, bởi một thời điểm không bao giờ không có chữ để được đọc ra, tôi nghĩ tới cái ṿng của con chim bồ câu-du hành ở giữa bài thơ Contrescarpe [của Celan]. Con chim bồ câu-du hành vận chuyển, chuyển giao, diễn dịch một tin tức được ghi bằng mật mă, nhưng đó không phải là một ẩn dụ. Nó khởi hành ở thời điểm của nó, nghĩa là thời điểm gửi nó được gửi đi, nó phải trở lại từ một địa điểm khác về cùng một địa điểm lúc khởi hành, địa điểm của nơi xuất phát của nó, việc đi-về được hoàn tất. Thế nhưng, vấn đề mă tự (chiffre), Celan không chỉ đặt ra với tin tức nhưng c̣n với chính cái nhẫn/ṿng, với dấu chỉ của sự thuộc về, kết hợp và điều kiện quay trở lại nữa. Mă tự của dấu triện, dấu ấn của nhẫn/ṿng có thể đáng kể hơn nhiều so với nội dung tin gửi. Cũng như trong schibboleth, ư nghĩa của từ không quan trọng bằng, chúng ta hăy nói vậy, cái h́nh thức chỉ nghĩa của nó khi nó trở thành mật khẩu, đánh dấu sự thuộc về, sự tỏ hiện của kết hợp.”(45) Derrida trích dẫn khổ 5 bài La Contrescarpe/Bờ dốc xoải của Celan:
Scherte die Brieftaube aus, war ihr Ring
zu entziffern? (All das
Gewölk um sie her – es war lesbar.) Litt es
Der Schwarm? Und verstand,
und flog wie sie fortblieb?
Con bồ câu du hành phải chăng đă bỏ đường bay của nó,
cái nhẫn/ṿng của nó phải chăng
có thể giải tự (tất cả
mây chung quanh nó – đọc được). Lũ ngươi có
chịu đựng được nó không? Và hiểu,
và bay lên, trong khi kẻ khác trụ lại?
Một thời điểm được chuyển đi, được chuyển vận, cất cánh thế nên chính nó tự xóa bỏ trong tính chất khả độc (lisibilité), nhưng sự xóa bỏ này không phải một tai nạn t́nh cờ, không ảnh hưởng tới ư nghĩa hay tính khả độc của nó. Theo Derrida, ngược lại sự xóa bỏ tự nó lẫn vào với chính ngả tiếp cận với cái thời điểm đưa ra để được đọc trong việc đọc và tiến tŕnh lạ kỳ này đă bắt đầu việc ghi chính thời điểm. Thời điểm phải dấu kín trong chính nó chỉ dấu nào đó (quelque stigmate) của tính chất riêng ḿnh để bền lâu hơn là cái nó tưởng niệm: đó là bài thơ vậy. Derrida kết luận: “Đó là cơ may duy nhất để thời điểm cầm chắc sự trở lại của nó. Xóa bỏ hay dấu kín, sự hủy bỏ riêng với nhẫn/ṿng của việc trở lại thuộc vào chuyển vận ghi thời điểm. Cái phải tưởng niệm, vừa thu tập và vừa lập lại, do vậy, cùng lúc, là sự hư vô hóa của thời điểm, một thứ không là ǵ hết, hay tro bụi.
Tro bụi chờ đợi chúng ta.”(46)
*
Trong trường hợp thứ nhất thời điểm được nhận biết có liên quan tới một biến cố ít ra là biểu kiến (dường như) và ngoại tại (từ bên ngoài) (en apparence et de l’extérieure) bài thơ, phân biệt hẳn với việc viết ra và kư tên tác gia bài thơ. Thời điểm ở đây là hoán dụ (métonymie) – mọi thời điểm đều là hoán dụ – nhằm chỉ định một phần của một biến cố hay một chuỗi những biến cố nhằm nhắc nhớ toàn bộ biến cố. Tuy chỉ là một phần nhưng nó thay mặt cho toàn bộ biến cố. Điều ǵ đă xảy ra – chẳng hạn như chúng ta đă nói tới “ngày 13 tháng Hai” – không phải là thời điểm bài thơ xuất hiện, được viết ra. Thí dụ: câu thơ đầu tiên trong bài In Eins (Tất cả trong một trong tập Spachgitter) bắt đầu bằng Dreizehner Feber/Mười ba tháng Hai. Câu hỏi Derrida đặt ra là: Cái ǵ thu tập và tưởng niệm trong một lần duy nhất của Tất cả trong một? Có thật ở đây là một sự tưởng niệm? Cái “tất cả trong một”, chỉ trong một lần, nhiều lần cùng một lúc, dường như tụ họp trong tính duy nhất của một thời điểm. Nhưng thời điểm này, để có thể là duy nhất và là thời điểm chỉ nó thôi, một ḿnh nó, ḿnh nó trong loại, có phải là một thời điểm không? Và nếu như có nhiều hơn một ngày 13 tháng Hai th́ sao?”(47) Câu trả lời là: không chỉ v́ ngày 13 tháng Hai trở lại trong mọi năm, nhưng trước hết bởi rất nhiều biến cố khác ở những nơi chốn rải rác trên mặt đất, ở những thời điểm khác nhau, trong những thành ngữ xa lạ (en des idioms étrangers) sẽ có thể tụ hội trong tâm điểm của cùng môt ngày kỷ niệm như những câu thơ sau đây của Celan:
Dreizehter Feber. Im Herzmund
Erwaches Schibboleth. Mit dir,
Peuple
De Paris. No pasarán
Mười ba tháng Hai. Trong miệng của tim
thức tỉnh một Schbboleth. Với ngươi,
Dân chúng
Của Paris. No pasarán
Derrida cho rằng những câu thơ này cũng như phần c̣n lại của bài thơ hiển nhiên được mă hóa (chiffrés) theo nhiều nghĩa khác nhau và trong nhiều ngôn ngữ khác nhau. Trước hết v́ nó bao gồm một mă tự (un chiffre) con số 13 là một trong những con số nơi giao tiếp sự t́nh cờ và sự thiết yếu để có thể được giao phó cho một thời điểm duy nhất. Hơn thế nữa, khớp nối (ligament) đặt chung định mệnh (fatalité) và cái ngược lại định mệnh một cách chặt chẽ theo cách vừa có ư nghĩa vừa vô nghĩa: cơ may và hạn kỳ (la chance et l’échéance), trong trường hợp có sự trùng hợp nghĩa là cùng rơi vào (tomber ensemble) dù may hay rủi.
DIE ZAHLEN, im Bund
mit der Bilder Verhängnis
und Gegen-
verhängnis
Und Zahlen waren
mitverwoben in das
Unzählbare. Eins und Tausend…
NHỮNG CON SỐ, nối liền
sinh mệnh những h́nh ảnh
và sự đối nghịch
sinh mệnh của nó
Và nhiều những con số được
kết lại trong
cái không đếm được. Một, một ngàn
Ngay tựa đề bài thơ In Eins đă có con số Eins/một đứng trước số 13 cho biết sự cùng-chỉ định (co-signation) và sự cùng-chữ kư (co-signature) của một tính chất riêng biệt đa phức (multiple singularité). Cũng ngay từ tựa đề và ở từ mở đầu, mă tự (chiffre) như thời điểm được đưa vào trong bài thơ, cho người đọc đi vào bài thơ, nhưng là một lối vào được mă số. Những câu thơ này cũng được mă số theo một nghĩa khác nữa: không thể dịch. Chính v́ vậy Derrida thấy có sự thách thức đối với người dịch thơ Celan. Một lư do khác nữa là Celan đă đưa vào trong những bài thơ hay trong ngay một bài thơ cùng lúc bốn thành ngữ và từ ngữ tiếng nước khác. Như trong bài In Eins thượng dẫn: từ đầu, tựa đề là tiếng Đức, câu thơ thứ nh́ là ngôn ngữ thứ nh́ schibboleth là tiếng Do thái phát ra từ “miệng trái tim”. Theo Derrida, ngôn ngữ thứ nh́ này có thể là ngôn ngữ thứ nhất, “tiếng nói của sớm mai” (la langue du matin), tiếng nói gốc (la langue d’origine) từ trái tim và từ Á đông. Trong ngôn ngữ Do thái th́ tiếng nói, ngôn ngữ là môi và Celan cũng gọi nó là những “từ được lột da qui đầu” (mots circoncis). Về từ Do thái Schibboleth người ta t́m thấy trong tất cả những ngôn ngữ cùng họ hàng như tiếng của dân phénicien, judéo-araméen, syriaque và đă trải qua biến đổi thành nhiều nghĩa khác nhau như: sông, lạch, cọng lúa ḿ, cuống trái olive, và ngoài những nghĩa trên c̣n có nghĩa là mật khẩu dùng trong thời chiến tranh để được phép đi qua biên giới có kiểm soát. Thế nhưng nghĩa của nó không quan trọng bằng cách phát âm sao cho đúng phần đầu phải là schi chứ không phải là si mới được cho phép đi qua đồn canh biên giới.
_________________________________
(44) Bài thơ Chymisch của Celan:
Chymisch
Schweigen, wie Gold gekocht in,
verkohlten
Händen.
Große, graue,
wie alles Verlorene nahe
Schwestergestalt:
Alle die Namen, alle die mit-
verbrannten
Namen. Soviel
zu segnende Asche. Soviel
gewonnenes Land
über
den leichten, so leichten
Seelen-
Ringen.
Große. Graue. Schlacken-
lose.
Du, damals.
Du mit der fahlen,
Aufgebissenen Knospe.
Du in der Weinflut.
(Nicht wahr, auch uns
entließ diese Uhr?
Gut,
gut, wie dein Wort hier vorbeistarb.)
Schweigen, wie Gold gekocht, in
verkohlten, verkohlten
Händen.
Finger, rauchdünn. Wie Kronen, Luftkronen
Um - -
Große. Graue. Fährte-
lose.
Konig-
liche.
HÓA
Câm lặng, như vàng trộn lẫn, nấu lại, trong
Những bàn tay
hóa than.
Lớn, xám,
cận kề như tất cả cái đă mất
bóng h́nh-em gái:
Tất cả những cái tên đó, tất cả những
cái tên cùng với
bóng h́nh bị thiêu rụi. Bao nhiêu
tro để khẩn cầu. Bao nhiêu
đất đai đạt được
phía trên những
cái nhẫn
nhẹ tênh, thật nhẹ
của linh hồn.
Lớn. Xám. Không c̣n có
than xỉ.
Ngươi, rồi.
Ngươi với cái búp hoa
xanh xao, quá trớn.
Ngươi trong sóng rượu.
(Có phải, chúng ta cũng vây,
cái đồng hồ này để cho chúng ta đi?
Được lắm:
Được, nơi đây lối vào cơi chết của lời ngươi.)
Câm lặng, được nung như vàng, nấu lại, trong
những bàn tay
hóa than, hóa than.
Những ngón tay, khói mảnh. Như những ṿng, những ṿng không khí
vây quanh - -
Lớn. Xám. Không c̣n có
vết tích để theo.
Uy-
nghi.
CHYMIQUE
Silence, comme un or en fusion, recuit, dans
des mains
calcinées.
Grande, grise,
proche comme tout le perdu
shilouette-sœur:
tous ces noms, tous ces
noms avec
elle brûlés. Tant
de cendre à bénir. Tant
de terres gagnées
au-dessus des
anneaux
d’âme
legers, si legers.
Grande. Grise. La Dépourvue de
scories.
Toi, autrefois.
Toi avec le bourgeon
blême, mordu.
Toi dans le flot de vin.
(N’est-ce pas, nous aussi
cette horloge nous a laissé partir?
C’était bon:
Bon, la mort-passage ici de ta parole.)
Silence, cuit comme de l’or, dans
Des mains
carbonisées, carbonisées.
Doigts, gracile fumée. Comme des couronnes, des couronnes d’air
autour de - -
Grande. Grise. La Dépourvue de
trace à suivre.
Roy-
ale.
(Jean-Pierre Lefebvre dịch)
Jean-Pierre Lefebvre là học tṛ thân thiết của Celan nên mức khả tín của những bản dịch thơ Celan sang Pháp văn khá cao. Trong bài thơ này Jean-Pierre Lefebvre đưa ra 5 chú thích: 1) Bản đánh máy bài thơ đề ngày 31 tháng Giêng 1961. Chymisch là một lối viết tượng h́nh không điển h́nh (graphie atypique), cổ xưa của từ chimisch. Trong từ vựng y học Pháp (Celan đă theo học Y khoa ở Tours một năm 1938-1939) le chime (do chữ Hy Lạp chysmos, humeur) là dung dịch (bouillie) do khối đồ ăn tạo ra vào lúc đi vào ruột sau khi đă chịu tác dụng của nước miếng (bọt) và dung dịch acid do dạ dầy tiết ra. Chymie là cách viết cổ cho chữ chimie; 2) Schweigen: sự yên lặng theo nghĩa chủ thể tức là câm lặng (mutisme); 3) Aufgebissen: mở ra do răng cắn; 4) Dünn vừa có nghĩa mảnh, mỏng (như một sợi chỉ) vừa có nghĩa gầy g̣, nhẹ, không đặc (như một dung dịch); 5) König-liche không chỉ là một tính từ được tạo ra bởi nối thêm vào sau/hậu từ (suffixation) –lich nhưng cũng có nghĩa die Leiche (chữ Đức cổ lîche là xác chết)
(45) Jacques Derrida, Schibboleth trang 39: Mais surtout, une date n’allant jamais sans lettre à déchiffrer, je pense à l’anneau du pigeon-voyageur, au centre de La Contrescarpe. Le pigeon-voyageur transport, transfère, traduit un message chiffré, mais ce n’est pas une métaphore. Il part à sa date, celle de l’envoi, il doit revenir de l’autre lieu au même, celui de sa provenance, aller-retour accompli. Or la question du chiffre, Celan ne la pose pas seulement au sujet du message mais de l’anneau même, du signe d’appartenance, alliance et condition du retour. Le chiffre du sceau, l’empreinte de l’anneau compte peut-être plus que le contenu du message. Comme dans schibboleth, le sens du mot importe moins que, disons, sa forme signifiante quand elle devient mot de passe, marque d’appartenance, manifestation de l’alliance.
(46) Sđd, trang 40: Seule chance pour elle d’assurer sa revenance. Effacement ou dissimulation, cette annulation propre à l’anneau du retour appartient au mouvement de la datation. Ce qui se doit commémorer, à la fois rassembler et répéter, c’est dès lors, à la fois, l’annéantissement de la date, une sorte de rien, ou cendre.
La cendre nous attend.
(47) Sđd, trang 42: Qu’est-ce qui se rassemble et commémore dans l’unique fois de ce In Eins, d’un seul coup poétique? Et s’agit-il d’ailleurs d’une commémoration? Le “tout en un” en une seule fois, plusieurs fois à la fois, semble se consteller dans l’unicité d’une date. Mais celle-ci, pour être unique et la seule, toute seule, seule du genre, est-elle une? Et s’il y avait plus d’un 13 février?
(c̣n tiếp)
ĐÀO TRUNG ĐẠO
http://www.gio-o.com/DaoTrungDao.html
© gio-o.com 2016