ĐÀO TRUNG ĐẠO
(115)
Edmond Jabès
Kỳ 1, Kỳ 2, Kỳ 3, Kỳ 4, Kỳ 5, Kỳ 6, Kỳ 7, Kỳ 8, Kỳ 9, Kỳ 10, Kỳ 11, Kỳ 12, Kỳ 13, Kỳ 14, Kỳ 15, Kỳ 16, Kỳ 17, Kỳ 18, Kỳ 19, Kỳ 20, Kỳ 21, Kỳ 22, Kỳ 23, Kỳ 24, Kỳ 25, Kỳ 26, Kỳ 27, Kỳ 28, Kỳ 29, Kỳ 30, Kỳ 31, Kỳ 32, Kỳ 33, Kỳ 34, Kỳ 35, Kỳ 36, Kỳ 37, Kỳ 38, Kỳ 39, Kỳ 40, Kỳ 41, Kỳ 42, Kỳ 43, Kỳ 44, Kỳ 45, Kỳ 46, Kỳ 47, Kỳ 48, Kỳ 49, Kỳ 50, Kỳ 51, Kỳ 52, Kỳ 53, Kỳ 54, Kỳ 55, Kỳ 56, Kỳ 57, Kỳ 58, Kỳ 59, Kỳ 60, Kỳ 61, Kỳ 62, Kỳ 63, Kỳ 64, Kỳ 65, Kỳ 66, Kỳ 67, Kỳ 68, Kỳ 68,Kỳ 66, Kỳ 69, Kỳ 70, Kỳ 71, Kỳ 72, Kỳ 73, Kỳ 74, Kỳ 75, Kỳ 76, Kỳ 77, Kỳ 78, Kỳ 79, Kỳ 80, Kỳ 81, Kỳ 82, Kỳ 83, Kỳ 84, Kỳ 85, Kỳ 86, Kỳ 87, Kỳ 88, Kỳ 89, Kỳ 90, Kỳ 91, Kỳ 92, Kỳ 93, Kỳ 94, Kỳ 95, Kỳ 96, Kỳ 97, Kỳ 98, Kỳ 99, Kỳ 100, Kỳ 101, Kỳ 102, Kỳ 103, Kỳ 104, Kỳ 105, Kỳ 106, Kỳ 107, Kỳ 108, Kỳ 109, Kỳ 110, Kỳ 111, Kỳ 112, Kỳ 113, Kỳ 114, Kỳ 115,
Theo Jabès, vị trí cõi ngoài của thi sĩ là một nơi chốn cho người khác (un lieu pour l’autre), người khác hiểu theo nghĩa kẻ xa lạ (l’étranger) nằm trong thi sĩ khi thi sĩ đứng trước cánh cửa để lắng nghe tiếng thì thầm của sự vật, và thi sĩ cũng để cho kẻ xa lạ cất tiếng. Như vậy thi sĩ được giải phóng ngay nơi người khác. Đó là cuộc phiêu lưu vô tận, được lập lại vô tận, của tiếng nói thi ca như Jabès đã viết trong lời đề từ của tập Les mots tracent (1943-1951): “Tôi tìm cách, với những từ, để nắm bắt thi ca nhưng thi ca đã trú ẩn trong những từ rồi. Việc theo đuổi thi ca nơi, ở đó, thi ca trở thành tiếng nói của tôi, như thế chỉ có mình tôi xoay trở.”[10] Cũng trong tập thơ này Jabès nói về thi từ (mot poétique): “Ở quanh một từ cũng như ở quanh một ngọn đèn. Bất lực để thoát ra, đã bị lên án,[như] côn trùng, tự thiêu thân. Không bao giờ cốt vì một ý tưởng, nhưng cốt vì một từ. Ý tưởng gắn chặt bài thơ xuống đất, đóng đinh thi sĩ vào thập giá bằng những cái cánh. Vấn đề nằm ở chỗ, để sống còn, kiếm ra những nghĩa khác cho từ, và đề nghị hàng nghìn nghĩa cho từ, những nghĩa lạ lùng nhất, táo bạo nhất, để làm lóa mắt, lửa của những từ này không sao mất đi. Và đó là những bay bổng không ngừng và những rơi xuống chóng mặt cho tới kiệt quệ.”[11] Jabès cũng cho rằng nếu người làm thơ mà nói về mình thì chỉ tổ làm cho thi ca vướng víu (Parler de soi, c’est toujours embarrasser la poésie.) “Nói về mình” – nhấn giọng – ở đây có nghĩa “tự đóng đinh” vào ngã, không thể cất cánh lên tầng cao phổ quát để rồi lao xuống tận nơi cùng kiệt được.
Rải rác trong Portes de Secours Jabès đưa ra một số phát biểu về thơ, thi sĩ và thi ca khá thú vị, giúp cho việc hiểu thơ của Jabès phần nào dễ dàng hơn:
- Làm cho từ thấy được, nghĩa là [làm cho] đen (Rendre le mot visible, c’est-à-dire noir).
- Rồi có ngày thi ca sẽ cho con người khuôn mặt của con người (Un jour, la poésie donnera aux hommes son visage.)
- Chỉ có người đọc là có thực (Le lecteur seul est réel).
- Có những dấu vết của niềm im lặng trên cát con người xóa đi (Il y a des traces de silence sur le sable que l’homme efface).
- Thi ca là con gái của đêm tối. ĐEN. Muốn nhìn thấy cô ta phải hoặc chĩa đèn pin lên cô ấy – chính vì vậy tại sao, điếng người vì sửng sốt, cô hiện ra với khá nhiều thi sĩ như một pho tượng – hoặc, cô nhắm mắt lại để hôn phối đêm tối. Không thể nhìn thấy, bởi đen trong đen, để hiện ra với chúng ta, thi ca khi đó sẽ sử dụng tiếng nói. Thi sĩ để nó uốn mình. Hắn sẽ chẳng ngạc nhiên khi, một cách tự tin, tiếng nói này, chìa ra cho hắn, sẽ có hình dạng một bàn tay: hắn cũng sẽ chìa những ngón tay mình ra (La poésie est fille de la nuit. NOIRE. Pour la voir il faut ou braquer sur elle une lampe de poche – c’est pourquoi figée dans sa surprise, elle apparaît à nombre de poètes comme une statue – ou bien, fermer les yeux pour épouser la nuit. Invisible, puisque noir dans le noir, pour se manifester à nous, la poésie fera alors, de sa voix. Le poète se laissera fléchir par elle. Il ne s’étonna plus lorsque, confiante, cette voix, pour lui, prendra la forme d’une main: il lui tendra les siennes.
- Câu văn chết ngay khi được viết ra. Những từ vẫn còn lại sau [khi] câu văn [đã chết] (La phrase meurt sitôt composée. Les mots le survivent.)
- Những từ có những người bạn gái xinh đẹp đã chết mà những từ đôi khi trưng hoa trên những nấm mồ (Les mots ont de belles amies mortes dont ils fleurissent quelques fois les tombes).
- Khi mọi người đều đồng ý về nghĩa của một từ, khi đó thi ca sẽ chẳng có lý do để tồn tại (Lorque les hommes seront d’accord sur le sens d’un mot, la poésie n’aura plus sa raison d’être.)
- Thi ca chỉ có mỗi một tình yêu: Thi ca (La poésie n’a qu’un amour: La poésie).
Edmond Jabès viết những bài thơ trong Je bâtis ma demeure thời gian còn ở Cairo (Ai Cập). Ngoài thơ còn có nhiều bài ca (chansons) và nhiều bài đối thoại (dialogues) cũng như những đoạn rời (fragments). Những đối thoại, chẳng hạn bài Les Clés de la Ville có nhiều tiếng nói (polylogues) như thoại trong một vở kịch. Jacques Derrida trong bài Edmond Jabès et la Question du Livre nhận định: “Từ nay trở đi người đời sẽ đọc Je bâtis ma demeure hơn nữa. [...] những bài ca xuôi chẩy một cách đáng yêu quanh một lời nói, lời nói này vì chưa thực yêu mến cội rễ thực sự của nó, hơi uốn cong xuống trước gió. Vẫn chưa vươn thẳng để nói ra sự chính trực và sự nghiêm cẩn của bổn phận thi ca.” [12]
_____________________________
[10] Edmond Jabès, Le Seuil Le Sable / Portes de Secours trang 155: Je cherche, avec mes mots, à saisir la poésie; mais dejà, elle s’est refugiée en eux. De la poursuivre là où elle est devenue ma voix, c’est moi seul, alors, que je tourmente.
[11] Sđd trang 156: Autour d’un mot comme autour d’une lampe. Impuissant à s’en défaire, condamné, insect, à se laisser brûler. Jamais pour une idée mais pour un mot. L’idée cloue le poème au sol, crucifie le poète par les ailles. Il s’agit, pour vivre, de trouver d’autres sens au mot, de lui en proposer mille, les plus étranges, les plus audacieux, afin qu’éblouis, ses feux cessent d’être mortels. Et ce sont d’incessants envols et de vertigieuses chutes jusqu’à l’épuisement.
[12] Jacques Derrida, Edmond Jabès et la Question du Livre trong L’Écriture et la Différence trang 99: On relira mieux désormais Je bâtis ma demeure. [...] des chansons s’enroulaient gracieusement autour d’une parole qui, de n’avoir pas encore aimé sa vraie racine, pliait un peu au vent. Ne se dressait pas encore pour dire seulement la rectitude et la rigidité du devoir poétique.
____________________________
THƠ EDMOND JABÈS
SOLEILAND/XỨ MẶT TRỜI
Un pays où les écritaux ont des ongles
N’entre pas qui veut
Où les pièrres sont hors des paupières ravagées de la terre
L’ombre qui risque
le matin Les branches combien de nœuds de soif de fruits les immobilisent
depuis les racines
Un pays une ville au bas d’un mur
où les enfants jouent à traquer l’air
à crever les grands yeux bleus de l’air
où les filles soulèvent leur robe d’eau-de-vie
à minuit
Một xứ sở nơi những bảng quảng cáo có móng nhọn
Không phải ai muốn cũng vào được
Ở đó những tảng đá nằm bên ngoài những mi mắt bị tàn phá của trái đất
Bóng tối thử mạo hiểm trên
buổi sáng Những cành cây có bao nhiêu nút thắt của khát khao trái cây làm những cành cây bất động
từ rễ trở lên
Một xứ sở một thành phố phía dưới một bức tường
nơi trẻ con chơi trò đuổi bắt gió
chơi trò khoét những con mắt xanh to lớn của gió
nơi những thiếu nữ vén cao váy màu rượu trưng của chúng
vào lúc nửa đêm
Mon amour un pays une ville une chambre
que l’huile des croisées prolonge
que le quartz du soir tombant délimite
où les verrous sont des écrins de clé des songes
sur lesquels tu écris ton nom
où l’eau coule entre les doigts
lorque fléchit la lampe
Tình yêu tôi một xứ sở một thánh phố một căn buồng
nối dài bởi dầu chảy từ khung cửa sổ
bị giới hạn bởi thạch anh của buổi chiều rơi xuống
nơi chốt cửa là những hộp có khóa với cái chìa của những giấc mơ
em viết tên em trên đó
nơi nước chảy giữa những ngón tay
khi đèn nhấp nháy
Mon amour un pays une ville une chambre un lit
L’Univers y germe en frondes d’araignée semelles de lynx
On entend la vie gonfler les veines
du silence
Toute chose se tâte et se complaît
dans sa forme
Tình yêu tôi một xứ sở một thành phố một cái giường
Vũ trụ trồi lên ở đó theo hình dạng mạng nhện bàn chân báo
Người ta nghe đời sống sủi bọt
niềm im lặng
Mọi vật tự dò dẫm và hài lòng
trong hình dạng của nó
Mon amour un pays une ville une chambre un lit un mort
qui circule
quand tout se tait
Je ne t’ai jamais parlé de lui
mon frère mon allié
seul à se souvenir
à égrener indéfiniment le chapeler glacé de l’âme
La douleur met le feu
à l’ombre Les tempes s’irisent
à leur insu
Tình yêu tôi một xứ sở một thành phố một cái giường một người đã chết
quay vòng
khi mọi thứ câm nín
Tôi chẳng bao giờ nói về hắn với em
người anh em người bạn đường của tôi
một mình nhớ lại
để chuỗi hạt tuốn qua ngón tay đếm những lời cầu nguyện
Khổ đau đặt lửa
vào bóng tối Thái dương rực sáng
mà chúng chẳng hay
Mon amour un pays une ville une chambre un lit un mort un toit
Cendrillon réveille des bracelets de fête dans le fleuve
avec son pied nu
L’orchestre fait éclater des fèves d’orgie d’or
autour des chevelures grisées
On tue comme on chante
Une fille a perdu sa traîne de myrtils de nonchalance
et l’alouette de ses soucis
Les saisons dans les miroirs
abattent leurs cartes truqués.
Tình yêu tôi một xứ sở một thành phố một cái giường một người đã chết một mái nhà
Lọ Lem dơ cao những vòng hoa lễ hội trên sông
với bàn chân trần
Ban nhạc làmcho những chuỗi hạt hoan lạc ngời sáng
quanh những mái tóc uốn quăn
người ta giết người như người ta ca hát
Một thiếu nữ đã đánh mất dải đuôi áo đính hạt trái dâu
và trò vui đùa những lo lắng của cô ta
Mùa màng trong những tấm gương
hạ những tấm bảng lừa gạt xuống
Mon amour un pays une ville une chambre un lit un mort un toit un collier
La faute n’est pas au voile d’arête qu’on écorche
ni à la perle refugiée dans le grenier
Le marin a rime facile
Son amie exhibe des boucles de cornes de requin
et une ceinture de lames de faon
Tình yêu tôi một xứ sở một thành phố một cái giường một người đã chết một mái nhà một chuỗi hạt đeo cổ
Lỗi lầm không ở cùng với tấm mạng xương cá chúng ta dứt ra
cũng chẳng với hạt ngọc tỵ nạn trong gác mái
Người thủy thủ nhảy theo nhịp dễ dàng
Người bạn gái anh ta khoe những chiếc khóa làm bằng vây cá
và một chiếc thắt lưng da hươi xếp lớp
Mon amour un pays une ville une chambre un lit un mort un toit
J’ai rendu le collier
Mon amour un pays une ville une chambre un lit un mort
Le toit s’est ecroulé
Mon amour un pays une ville une chambre un lit
Le mort est enterré
Mon amour un pays une ville une chambre
Le lit est défait
Mon amour un pays une ville
La chambre est vide
Mon amour un pays
Quelle était cette ville
Mon amour notre amour
sans pays
Tình yêu tôi một xứ sở một thành phố một cái giường một người đã chết
Mái nhà đã xụp đổ
Tình yêu tôi một xứ sở một thành phố một cái giường
Người chết đã được chôn cất
Tình yêu tôi một xứ sở một thành phố một cái phòng
Cái giường đã bị phá hủy
Tình yêu tôi một xứ sở một thành phố
Căn phòng trống không
Tình yêu tôi một xứ sở
Thành phố nào vậy
Tình yêu tôi tình yêu chúng ta
vô xứ
(còn tiếp)
ĐÀO TRUNG ĐẠO
http://www.gio-o.com/DaoTrungDao.html
© gio-o.com 2018