đào trung đạo
(109)
Kỳ 1, Kỳ 2, Kỳ 3, Kỳ 4, Kỳ 5, Kỳ 6, Kỳ 7, Kỳ 8, Kỳ 9, Kỳ 10, Kỳ 11, Kỳ 12, Kỳ 13, Kỳ 14, Kỳ 15, Kỳ 16, Kỳ 17, Kỳ 18, Kỳ 19, Kỳ 20, Kỳ 21, Kỳ 22, Kỳ 23, Kỳ 24, Kỳ 25, Kỳ 26, Kỳ 27, Kỳ 28, Kỳ 29, Kỳ 30, Kỳ 31, Kỳ 32, Kỳ 33, Kỳ 34, Kỳ 35, Kỳ 36, Kỳ 37, Kỳ 38, Kỳ 39, Kỳ 40, Kỳ 41, Kỳ 42, Kỳ 43, Kỳ 44, Kỳ 45, Kỳ 46, Kỳ 47, Kỳ 48, Kỳ 49, Kỳ 50, Kỳ 51, Kỳ 52, Kỳ 53, Kỳ 54, Kỳ 55, Kỳ 56, Kỳ 57, Kỳ 58, Kỳ 59, Kỳ 60, Kỳ 61, Kỳ 62, Kỳ 63, Kỳ 64, Kỳ 65, Kỳ 66, Kỳ 67, Kỳ 68, Kỳ 68,Kỳ 66, Kỳ 69, Kỳ 70, Kỳ 71, Kỳ 72, Kỳ 73, Kỳ 74, Kỳ 75, Kỳ 76, Kỳ 77, Kỳ 78, Kỳ 79, Kỳ 80, Kỳ 81, Kỳ 82, Kỳ 83, Kỳ 84, Kỳ 85, Kỳ 86, Kỳ 87, Kỳ 88, Kỳ 89, Kỳ 90, Kỳ 91, Kỳ 92, Kỳ 93, Kỳ 94, Kỳ 95, Kỳ 96, Kỳ 97, Kỳ 98, Kỳ 99, Kỳ 100, Kỳ 101, Kỳ 102, Kỳ 103, Kỳ 104, Kỳ 105, Kỳ 106, Kỳ 107, Kỳ 108, Kỳ 109,
GIUSEPPE UNGARETTI
Chương II
Thi pháp và Thi ca của Ungaretti
Hai phần cuối của toàn tập Vita d’un uomo/Đời của một người tương đối ngắn. Phần đầu Un grido e paesaggi/Một tiếng kêu và những phong cảnh Ungaretti viết trong khoảng giữa những năm 1949-1952 với dòng đề tặng Jean Paulhan trong đó bài Monologhetto/Bài độc thoại nhỏ gồm 202 dòng vốn là một bài văn xuôi được viết để đài phát thanh rồi sau đó được chuyển thành thơ tự do trộn lẫn thơ thể hendecasyllables. Vì thế Monologhetto là độc thoại nhưng vẫn còn mang những nét của bài đọc trên đài phát thanh và của bài luận văn gốc nói về tháng Hai nhiều kỷ niệm: tháng Hai là tháng Ungaretti chào đời và cũng là tháng sinh và tử của đứa con trai Antonietto. Bài thơ mở đầu như sau:
Dưới những lớp vỏ, nhựa đã
Tự thấy đang chuyển động,
Ứa chảy, say sưa nói với nụ:
Bối rối, mùa đông còn ngủ kỹ
– Và tháng Hai, trong cơn mê sảng, nhựa thừa cơ
Băng ngang –
Những câu mở đầu nhằm dần dần khơi dậy ký ức và được tiếp tục bằng những chuỗi hình ảnh tự truyện kể lại những gì diễn ra vào những tháng Hai trong đời Ungaretti: tiếng chim hót ở Maremme, chuyến di từ Foggia đến Lucera bằng xe ngựa, đi qua những dãy núi ở Vivario, ngắm những ông già chậm rãi bập tẩu nghe Ors’Antone hát, khi Ungaretti ở Brezil ban ngày dự Hội Hóa Trang ban đêm dự khiêu vũ...Tác gia đưa ra cảm nhận “màu của tháng Hai” như “màu của hy vọng” và sau hết là những ký ức về Alexandria, khu người Ai cập ở và về người mẹ già thường hay nhắc lại câu châm ngôn “Con đường nhỏ chảy vào tháng Hai/Dầu và rượu vang ngập những tảng đá.” Nhưng đặc sắc nhất là những câu thơ nói về thi sĩ:
Thi sĩ, hỡi những thi sĩ, tất cả chúng ta đã đeo
Tất cả mặt nạ;
Nhưng người ta chỉ thể là chính mình.
Qua sự thiếu kiên nhẫn tồi tệ,
Trong sự trống rỗng không tránh khỏi này
Hằng năm vào tháng Hai,
Kỳ hạn đã được ghi trên lịch:
Ngày Lễ Nến [Candelora]
Khi, từ trong bóng tối, lại hiện ra
Những run rẩy nhẹ nhàng của ngọn lửa nhỏ nhoi
Trên cháy bỏng
Của chút sáp trinh nguyên,
Và, sau vài tuần lễ, là ngày
Của Ngươi là bụi và sẽ trở về với bụi;
Trong quãng trống không, và bởi thiếu kiên nhẫn để bỏ đi
Mỗi kẻ chúng ta (chúng ta đã là những lão già,
Đầy hối tiếc;
Chẳng kẻ nào đã biết vậy mà lại không nghiệm xem
Ảo tưởng có thể bóp nghẹt đến mức nào khi
Chỉ sống trong hối tiếc)
Không kiên nhẫn, trong sự trống trải này, là rồ dại,
Một cách vô bổ, khi rượt theo,
Để nhập vào trong chút mơ tưởng
Chính nó cũng hóa ra là vô bổ,
Và mỗi kẻ, bất mãn vì điều,
Thời gian xoay chuyển những trò lừa dối của nó quá nhanh,
Hơn hẳn sự báo trước.
Dường như mơ mộng chỉ dánh cho con nít:
Bởi chúng có ân sủng là sự vô tư
Chữa lành mọi lỗi lầm sau đó ân sủng này tự làm mới
Hay thay đổi tiếng nói bằng một hơi thở.
Nhưng tuổi thơ, sao mà
Hóa thành kỷ niệm quá nhanh?
Chẳng có gì, chẳng có gì trên mặt đất này khác hơn
Một tia lấp lánh sự thật
Và hư vô của cát bụi,
Ngay cả, một kẻ điên khùng bất trị
Đối diện sự lấp lánh của những ảo ảnh, thì
Trong chính hắn và trong hành vi của hắn – sống
Dường như luôn vươn tay với tới.
Bài thơ này chỉ ra việc mãi tìm một trật tự thực tại không phải là trần thế mà là trật tự tập trung quanh Thượng đế. Tìm kiếm chứ không khám phá. Càng lớn tuổi tư tưởng Ungaretti càng hướng về tôn giáo hơn. Theo Joseph Cary “sự khao khát một ‘barlume di vero/tia sự thật’” phía sau tiếng nói của chết chóc, việc ý thức cùng lúc rằng dù cho tia lấp lánh này chỉ là một ảo ảnh, cho thấy đó là một thứ minh trí hoang vu của đơn tử lang thang. Tất cả vang vang không chỉ trong bài Monologhetto/Bài độc thoại nhỏ này mà còn cả trong Vita d’un uomo nữa.” Tiếp theo Monologhetto/Bài độc thoại nhỏ là một vài bài thơ có tính cách tự thuật và sau chót là bài Sematica/Ký hiệu học tả rừng rậm ở Brezil, bài Svaghi/Tiêu khiển gồm những bài thơ ngắn như tranh vẽ vốn viết lại những bài tản văn du lịch Gazetta del Popolo của Ungaretti viết theo lối hendecasyllable.
Tập thơ Taccuino del vecchio/Sổ tay của lão ông (1952-1960) [48] bản dịch Pháp văn gồm bài Ultimi cori per la Terra Promessa/ Hợp xướng kết thúc cho Đất Hứa và ba bài thơ ngắn. Ultimi cori per la Terra Promessa cả thảy có 27 khổ. Trong bản dịch Pháp văn các khổ 8,11-27 do Francis Ponge dịch, các khổ còn lại do Philippe Jaccottet dịch. Đây là một bài hợp xướng trong tổng thể khá phức tạp nhưng cũng cho thấy đất hứa vẫn là một nỗi ám ảnh xa vời khôn nguôi của Ungaretti:
Ngay cả sa mạc, người ta không băng ngang
Mà không có một vài hình ảnh trước đây trong đầu.
Của Đất Hứa
Một kẻ đang sống nào biết gì hơn thế.
(Khổ 5)
________________________________
[47] Joseph Cary, Sđd trang 228.
[48] Ungaretti giải thích nguồn gốc bài thơ này trong ấn bản lần đầu ở Milan năm 1960: “Những hợp xướng số 1, 2, 3 và 24 khai sinh trong dịp trở lại Ai Cập ngắn ngày, vào năm ngoái, đi cùng với Leonardo Sinisgalli, và đặc biệt chúng được gợi ý bởi cảnh sa mạc ở nghĩa trang Sakkharah. Trong một chuyến bay, từ Hồng Kông tới Beyrouth, dọc theo chuyến du lịch mới đây của tôi tới Nhật cùng với Jean Fautrier và Jean Paulhan đã cho cái cớ cho hợp xướng số 23. Những hợp xướng khác được gợi hứng hoặc do những sự cố hoàn toàn cá nhân, hoặc do những sự cố khác như việc phóng vệ tinh nhân tạo, thí dụ vậy, cho những hợp xướng 16 và 17.”
Về phần dịch thuật của Francis Ponge được Philippe Jaccottet giải thích: Bản dịch của Francis Ponge, một phần của Những hợp xướng kết thúc cho Đất Hứa, lần đầu ra mắt ở [tạp chí] Tel Quel với lời đề tặng sau đây: “tặng Jean Thibaudeau, kẻ thắp sáng cái đèn lồng của tôi, xin cám ơn.” Bài này được in lại trong Nouveau Recueil [của Ponge] năm 1967. Phần dịch phụ Jaccottet đóng góp cho bản dịch này, theo sự đồng ý của Francis Ponge, tuân thủ một quan điểm về dịch thuật khác, Jaccottet thấy là cần thiết để đánh dấu sự phân cách giữa hai phần. Cũng vậy đối với bài Apocalypse, hai phần đầu được công bố ở đây theo bản dịch của Francis Ponge. (Giuseppe Ungaretti, Vie d’un homme, phần Ghi chú của Philippe Jaccottet trang 336-337.)
(còn tiếp)
đào trung đạo
http://www.gio-o.com/DaoTrungDao.html
© gio-o.com 2018