đào trung đạo

thi sĩ / thi ca

(30)

 

                       Kỳ 1, Kỳ 2, Kỳ 3, Kỳ 4, Kỳ 5, Kỳ 6, Kỳ 7, Kỳ 8, Kỳ 9, Kỳ 10, Kỳ 11, Kỳ 12, Kỳ 13, Kỳ 14, Kỳ 15, Kỳ 16, Kỳ 17, Kỳ 18, Kỳ 19, Kỳ 20, Kỳ 21, Kỳ 22, Kỳ 23, Kỳ 24, Kỳ 25, Kỳ 26, Kỳ 27, Kỳ 28, Kỳ 29, Kỳ 30,

 

Cách “gọi/đặt tên” của Celan đúng ra là sự kết hợp âm thanh trong một từ bắt chước hoặc là gợi ra cái từ đó chỉ ra (onomatopoesia) như những từ “Patriaechen,” “lallen,” “käme,” và “Mensch” là việc đảo chữ cái (anagram) và kết hợp chúng lại cho thấy cách Celan khắc ghi cái tạo ra một sự khác biệt mà không làm cho ư nghĩa dễ thay đổi mất đi. Theo Aris Fioteros, ở Celan sự lộn trong ra ngoài là cần thiết cho việc cá nhân hóa để đưa đến hậu quả xóa bỏ chủ thể trong bài thơ và cũng được gắn liền với sự di chuyển mù quáng một cách bạo lực do ngôn ngữ thể hiện trong những câu thơ mở đầu, và cũng rất có thể với việc nhận ch́m các từ: tính chất chung của từ “Mensch” được nhắc đến không thể coi là để chỉ một nhân vật lịch sử có thể xác định nào như Moses, Hölderlin hay ai đó. Từ “Pallakch” được nhắc đi nhắc lại ở cuối bài thơ nhưng vẫn nằm ngoài bản văn tuy rằng khi nó nằm trong bản văn từ này tác động tạo nên một sự bày tỏ của tính chất bất quyết không có giải pháp, vừa là “có” vừa là “không” khiến cho nó có tính chất bí ẩn chống lại mọi giải pháp bởi nó được gói gọn lại bằng tính chất kép của ngôn ngữ; điều này làm cho không thể quyết định có phải nó được vay mượn của Hölderlin khi nó chỉ lập lại ư nghĩa “có hay không” hay ở lần lập lại thứ nh́ ư nghĩa lại trái ngược hẳn. Ngay trong bài thơ “Sprich auch du/Cả ngươi nữa nói đi” Celan cũng đă chỉ ra “Nói–/ Nhưng đừng có tách rời không khỏi có.” Từ đó có thể suy ra rằng hành vi nói của Celan khai sinh việc tŕnh diễn những từ lặn ch́m để đặt/gọi tên tính chất bất quyết. “Cái tên riêng mà những từ lặn ch́m này nổi lên cùng – Pallaksch – là một trích dẫn, đặc ngữ của dấu vết c̣n tồn tại từ một thời của sự mất đi của một bản thân hợp pháp, đánh dấu một biến cố ngôn ngữ có tính lịch sử.”[175] Thế nhưng dưới h́nh thức trích dẫn cái tên này cũng ngầm chỉ sự vắng mặt của cái được trích dẫn và cũng chỉ hướng về ư nghĩa của một tương lai đă là.

Aris Fioteros kết luận bài viết chỉ ra thi ca của Celan tuy muốn “biểu thị…thực tại” Celan đă phát biểu trong bài diễn từ Bremen nhưng lại thừa nhận ḿnh là kẻ đui mù như trong bài thơ “Die Silbe Schmerz” [176]: “ein blindes/ Es sei,”  nói thẳng ra một cách cùng cực trong một kịch bản khải huyền mỉa mai:

                   ..ein

                   Knoten

                   (und Wider- und Gegen- und Aber- und Zwillings- und Tau-

                   Sendknoten), an dem

                   Die fastnachtsäugige Brut

                   Der Mardersterne im Abgrund

                   buch-, buch-, buch-

                   stabierte, stabierte.

 

                   …một

                   nút thắt

                   (và xoắn- và ngược- và quành lại- và hai lần- và biết bao

                   nút thắt), nơi

                   một đàn con được ấp với những đôi mắt đêm Lễ Tro

                   của những ngôi sao mẹ trong vực thẳm

                   thốt-, thốt-, thốt

                   ra, ra.

 

Aris Fioteros nhận xét: Sự đớn đau xuyên suốt trong thi ca của Celan ở đây trở thành vết thương của cú pháp, sự hấp hối của chính ngôn ngữ. Những ngôi sao vực thẳm từ đó lời hấp hối được thốt ra không phải là những ngôi sao của bất kỳ thế hệ nào nhưng là những ngôi sao của trộm cắp và tước đoạt bởi Marder trong từ “Mardersterne” có cả hai nghĩa này. Trong bài Engführung Celan cũng dùng cách phá bỏ cú pháp này để nói lên nỗi đớn đau và lời hấp hối “Ho, ho- /sianna” và “Ho- /sianna”. Tiếng kêu tán dương và ngưỡng mộ bị làm biến dạng này được nối kết với tiếng kêu của chim cú. Aris Fioteros cũng chỉ ra ảnh hưởng của Rilke nơi bài bi ca thứ 10 trong Duino Elegies [177]: ở Rilke viết được chuyển nghĩa dựa trên những chùm sao hư ảo mang tên như Der StabDas Brennende Buch và chùm sao cuối cùng thuần túy và tinh khiết như ḷng bàn tay ban phép lành trong câu thơ “tỏ-ngời ‘M’/ thay cho Mẹ”. Thế nhưng,  khác với Rilke chữ ‘M’ viết tắt của nguồn cội đời sống và ngôn ngữ lại được biến thành chữ viết tắt được nhắc đi nhắc lại của sát nhân và tước đoạt (Mardersterne). Thêm nữa, những từ StabBuch trong bài thơ của Rilke được chẻ ra thành “buch-, buch-, buch-,/ stabierte, stabierte,” nên có thể nói thi ca của Celan là chính nỗi đớn đau của ngôn ngữ tổn thương bị đập vỡ trở thành lắp bắp “Buch-staben.” Celan cũng chịu ảnh hưởng của Hegel trong việc nhắc đến con chim cú Minerva Hegel đưa ra trong bài tựa quyển Grundlinien Philosophie des Rechts. Thế nhưng, ngược hẳn lại Hegel cho rằng con chim cú chỉ dang rộng cánh khi hoàng hôn buông xuống tượng trưng choc hung cuộc của lịch sử  con chim cú trong bài Engführung của Celan lại xuất hiện giữa ban ngày ban mặt, và tiếng kêu Ho-, ho- của chim cú trong bài thơ này lại chỉ lời khấn nguyện được viết tắt của một chủ thể không có cả một cái tên. Việc chẻ từ/chữ trong Engführung phản ánh trong tiến tŕnh đặt câu/từ song hành độc lập (parataxis) nhau như “Ho, ho-/ sianna” được kết nối với tiếng kêu của chim cú.

Kết thúc bài viết Aris Fioretos trở lại với đaọn cuối của khổ 8 bài Engführung được đạt trong trong những tiếng kêu Ho-ho/ sianna “Also/ stehen noch Tempel. Ein/ Stern/ hat wohl noch Licht./ Nichts,/ nichts ist verloren /Vậy mà/ vẫn c̣n những giáo đường đứng lặng lẽ. Một/ ngôi sao/ vẫn c̣n ánh sáng./Không có ǵ,/ không có ǵ mất đi”. Từ Nichts được cho đứng chơ vơ lần thứ nhất trong câu thơ chỉ sự không có ǵ nhưng từ nichts lập lại sau đó lại cho biết không có ǵ mất đi, nghĩa là bằng cách lập lại th́ không có ǵ mất đi như Szondi tóm tắt: “Ở đây chỉ có hiện hữu, nếu nó tự biến đổi thành kư ức, thành ‘vết vạch,’ của không-hiện hữu.” Theo Aris Fioretos, nếu ta đọc nhận xét này cùng với việc nhắc đến từ darüber/trên [trong câu thơ “taten ein Schweigen darüber/ Đă đặt trên đó một niềm im lặng] và từ zudecken/phủ kín [trong câu thơ “ – wer / deckte es zu?/ Deckte es/ zu – wer?/Ai/đă phủ cái đó? Đă phủ kín cái đó? – Ai?” th́ sẽ nhận ra bản văn của Celan chống lại việc thông diễn, và bài thơ này phơi mở dấu vết của cái ǵ đó không thể chuyển thành ngôn ngữ. Về những ngôi sao phân đoạn/khổ trong bài thơ làm cho bản văn được viết rời nhau cũng nhằm chống lại việc luận giải (exegesis). Aris Fioteros cũng cho rằng những ngôi sao chia các khổ thơ có chức năng như những dấu chỉ của một cái tên không được viết đầy đủ. Theo nghĩa này th́ chúng có thể được coi như “vạch ṿng quanh” (contour) có tính vật chất của sự bỏ sót (omission) hay của không ǵ (nothing). Theo một nghĩa khác th́ chúng trở thành những ghi chú mà không có bản văn, những dấu chỉ tách rời ư nghĩa của chúng hay chỉ là qui chiếu xuông về cái luôn luôn là khác và không thể đưa vào bản văn. Như Szondi gợi ư rằng bài Engführung viết xuống cái luôn-khác (always-other) này trong sự câm nín của nó. Aris Fioretos cho rằng câu hỏi Derrida đặt ra “làm sao cái “không ǵ” (nothing) được viết ra”  nhận được câu trả lời sâu sắc trong bài thơ này của Celan: những ngôi sao đánh dấu một cái ǵ đó triệt để khác ngôn ngữ xảy ra trong bản văn thi ca, việc ghi xuống có tính cách vật chất (materially inscribing) một chùm sao này chống lại việc thông diễn. Thế nhưng “Một cách thật khủng khiếp, một sự đối kháng như vậy lại không tạo ra sự khác biệt về ư nghĩa – theo nghĩa nó giống như một shibboleth/mật khẩu. Chỉ xảy ra trong những bản văn và rồi tạo ra một sự khác biệt, viết bản văn tách biệt ra, những ngôi sao của Celan chiếu sáng trên cái không bao giờ được cho lời nói/từ. Chúng thực hiện cái không ǵ này, và như thế đánh dấu tính hiện thời của một lịch sử mà chỉ có việc đọc là có thể chứng thực được mà thôi.’[178]

                                          

________________________________

[175] Sđd trang 318: The particular name that these submerging words emerge with – Pallaksch – is a quotation, an idiomatic remnant from a time of the loss of a legal selfhood, marking a historical linguistic event.

[176] Toàn văn bản tiếng Đức:

                          DIE SILBE SCHMERZ    

                          Es gab sich Dir in die Hand:

                          ein Du todlos,

                          an dem alles Ich zu sich kam. Es fuhren

                          wortfreie Stimmen rings, Leerformen, alles

                          ging in sie ein, gemischt

                          und entmischt

                          und wieder

                          gemischt.

 

                          Und Zahlen waren

                          mitverwoben in das

                          Unzählbare. Eins und Tausend und was

                          davor und dahinter

                          größer war als es selbst, kleiner, aus-

                          gereift und

                          rück- und fort-

                          verwandelt in

                          keimendes Niemals.

 

                          Vergessens griff

                          nach Zu-Vergessendem, Erdteile, Herzteile

                          schwammen,

sanken und schwammen. Kolumbus,

die Zeit-

lose im Aug, die Mutter-

Blume,

Mordete Masten und Segel. Alles fuhr aus

frei,

entdeckerisch,

blühte die Windrose ab, blätterte

ab, ein Weltmeer

blühte zuhauf und zutag, im Schwarzlicht

der Wildsteuerstriche. Im Särgen,

Urnen, Kanopen

erwachten die Kindlein

Jaspis, Achat, Amethyst – Völker,

Stämme und Sippen, ein blindes

 

Es sei

 

knüpfte sich in

die schlangenköpfigen Frei-

Taue – : ein

Knoten

(und Wider- und Gegen- und Aber- und Zwillings- und Tau-

Sendknoten), an dem

die fastnachtsäugige Brut

der Mardersterne im Abgrund

buch-, buch-, buch-,

stabierte, stabierte.

 

Martine Broda dịch sang Pháp văn (Paul Celan, La Rose de Personne trang 131):

 

          LES SYLLABLES DOULEUR            

 

          Il s’offrait à Toi dans ta main

          un Tu, sans mort,

          auprès duquel tout le Je revenait à soi. Autour

          circulaient des voix sans mots, des forms vides, tout

          passait en elle, mêlé,

          démêlé,

          et à nouveau

mêlé.

 

Et des nombres étaient

tissés dans

l’innombrable. Un, mille, et ce qui

devant, derrière,

était plus grand que soi, plus petit, mené

à terme, puis dans une metamorphose

à rebours et suivie,

transformé en un

jamais germinant.

 

De l’oublié harponna

du bientôt-oublié, parties du monde, parties du cœur

nageaient

sombraient et nageaient. Colomb,

le colchique

dans l’œil, hors-temps, la fleur-

mère,

massacre mats et voiles. Tout pris le large,

libre,

à la découverte,

la rose des vents s’épuisa en fleurs, s’effeuilla,

un océan

fleurit en masse et au jour, dans la lumière noire

de la déroute du gouvernail affolé. Dans des cercueilles,

des urnes, des canopes,

s’éveillaient les petits enfants

Jaspe, Agathe, Améthyste – peuples,

tribus et familles, un aveugle

 

Soit-il

 

se noua dans

le cordage libre

à tête de serpent – un

nœud

(contre-nœud, anti- nœud, non- nœud, jumeau et multiple

nœud), auquel

la couvée aux yeux de nuit-carême

des étoiles-martre dans l’abîme

ép-, ép-, é

pelait.

 

Martine Broda cho rằng động từ “abblühen” rất khó dịch v́ động từ này chỉ bông hồng nở cho tới lúc tàn. Đó chính là sự hoàn thành tối thượng của hồng: không phải sinh phần của bông hồng là để tồn tại nhưng đúng ra để tự nở ra, trong cơn chóng mặt vô tận của tặng dữ (don). Trước những ngọn gió của những cộng đồng Do thái sống rải rác khắp nơi (diaspora) một bong hồng của vực thẳm trở thành bông hồng của thế giới. Giải thích tựa đề tập thơ Niemandsrose/ La Rose de Personne/Bông hồng không của riêng ai Martine Broda chỉ ra đường đi của tập thơ là một chuyển vận phổ quát. Bông hồng được truyền tay từ “Người này” sang “Người kia” ở đó “Không ai” có nghĩa tương đương với “mọi người.” Khi “Ngươi” vốn là một người khác trở thành Tất cả Khác, “Tôi” của bài thơ mở ra tính chất “vô ngă” (impersonnel.) Cái tôi này t́m thấy một cái “chúng ta” khi nói nhân danh những cái tôi, nhân danh chúng ta. Và nếu bông hồng là một tặng dữ th́ “không ai” là nơi nó gửi tới. Chủ thể hiến tặng bài thơ khi phổ quát hóa không c̣n sở hữu ǵ và tự lưu đầy khỏi chính ḿnh, trở thành “không ai”.

 

Jean-Pierre Lefebvre dịch sang Pháp văn và chú giải (Paul Celan, Choix de poèmes, bản dịch trang 209-211, chú giải trang 355):

      

       LA SYLLABLE SCHMERZ (1)

          Il s’est donné à Toi dans ta main:

          un Tu, sans mort,

          à meme qui tout Je parvient à soi. Des voix

          libres de mots passaient autour, forms vides, tout

          entrait en elle, mêlé

          et démêlé

          et de nouveau

          mêlé.

 

          Et des nombres étaient

          Tissés dans

          l’innombrable. Un et Mille et tout

          ce qui avant et derrière

          était plus grand que lui-même, plus petit, complètement

          mûri et

          ré-gressivement et pro-gressivement

          transformé en

          Jamais qui germe.

 

          De l’Oublié

          attrapait de l’À-oublier, des parties du monde, des parties de cœur

          flottaient,

          sombraient en flottaient. Colomb

          la hors-saison (2)

          à l’œil, fleur

          de la mère,(3)

          assassinait voiles et mats. Tout le monde prit la mer,

          libre,

          en découverte,

          la rose des vents défleurit, s’effeuilla,

          un ocean

          fleurit en masse et fut au jour, dans la lumière noire

          des coups de barre sauvage. Dans les cercueils,

          les urnes, les canopes,

          les petits enfants s’éveillèrent

          Jaspe, Agathe, Améthyste – peoples,

          Tribus et lignages, un aveugle

 

          Que soit (4)

          se noua dans l’

          amarre franche à tête

          de serpent  –  : un

          nœud

          (et contre- et anti- nœud et outre-nœud, nœud jumeau et

mille- nœud) sur lequel

l’engeance aux yeux de carnaval (5)

des astres de martre dans l’abîme

sul, syl, syl-

labait, labait (6)

 

Chú thích của Jean-Pierre Lefebvre:

(1)     Celan viết bài thơ này ngày 19 tháng 9, 1962. Tựa đề tiếng Đức chơi chữ Schemrz đơn âm có nghĩa “khổ đau.”

(2)     Colomb có cặp mắt màu xanh…Ở đây, từ  colchique (Herbst-zeitlose hay Zeitlose) chỉ cây hoa colchique là một laọii cây mọc ở vùng ẩm thấp trổ bong vào mùa Thu, hoa màu hồng, trắng hay tím có chứa chất độc. C̣n Colchide là một xứ ở giữa bờ phía đông của Hắc Hải và dăy Caucase.  Từ Kolchis cũng để chỉ cây hoa colchique, thứ hoa “cuối Hạ” nở khi chùm sao Thiên lang xuất hiện ở chân trời. Celan đă dịch bài thơ Les Colchiques của Appolinaire sang tiêng Đức năm 1958. Về cây colchique có thể đọc bài viết của Claude Lévi-Strauss Une petite énigme mythico-littéraire/Một bí ẩn huyền thoại-văn chương nhỏ trong quyển Le Temps de la réflexion,Gallimard 1980. Trong truyền thống, đặc biệt với Hölderlin người ta thường so sánh Colomb với Jason. Cuộc du hành của Colomb cũng chấm dứt vào mùa Thu và, hơn thế, Colomb c̣n tiêu dao bất chấp thời gian qua đi trái hẳn với những thủy thủ khác.

(3)     Vị sĩ quan hải quân chỉ huy của Colomb được gọi tên là Santa-Maria và cây hoa colchique trong truyền thống tôn giáo gắn liền với Đức Mẹ Marie.

(4)     Cụm tử Es sei có lẽ do từ amen trong bài thơ In der Flucht của Nelly Sachs và tựa đề bài thơ của Celan Die Silbe Schmerz dường như để đối thoại với Nelly Sachs.

(5)     F astnacht (nghĩa đen: thức – riêng cho lễ hội – trong giai đoạn Lễ Tro có nghĩa “đêm” được gơi ư trong những câu thơ tiếp theo. Từ này có thể được hiểu theo lối đọc từ nguyên ngược lại để chỉ đêm tuyệt thực (fasten).

(6)     Celan tháo rời từ buchstabieren ra thành Buch (quyển sách nhưng cũng có nghĩa cây sao (hêtre), die Buch/quyển sách Buchenwald [ghi tên những người bị giam giữ trong trại tử] và của Buchenland (xứ Bucovie) và stabieren lập thành trên Stab là nét khắc vạch trong những tấm bảng gỗ cố. Văn tự cũng được gắn liền với sự khổ đau (Schmerz trong tựa đề nhưng không được lặp lại trong bài thơ.)

 

 

Bản dịch Anh văn của John Felstiner (Paul Celan, Selected Poems and Prose, 2001 trang 201):

 

          THE SYLLABLE PAIN

 

          It gave itself into your hand:

          a Thou, deathless,

          on which every I came to itself. Wordfree

          voices spun about, void forms, everything

          passed into them, mixed

          and unmixed

          and again

mixed.

 

And numbers were

woven into the

unnumberable. One and a thousand, and what

was larger than itself

in front and behind, samller, full

ripened and

back and forth

transformed into a

budding Never.

 

Forgotten reached

for To-be-Forgotten, land masses, heart masses

swam,

sank and swam. Columbus,

his eye on the meadow

saffron, the mother

flower,

murdered masts and sails. Everything fared forth,

 

free,

exploringly,

the compass rose faded, its petals

fell, an ocean

bloomed by heaps and bounds in the blacklight

of wild rudder strokes. In coffins

urns, canopic jars

little babes awoke:

jasper, agate, amethyst – people,

races and tribes, a blind

 

Let there be

 

tied into

serpentheaded free-

coils – : a

knot

(and retro- and counter- and over- and double- and Thou-

sand knot) where

a carnival-eyed brood

of weasel stars in the abyss was

book-, book-, book-

stalling and stalling.

 

Aris Fioteros dịch đoạn chót bài thơ:

 

          (…a

          knot

          [and contrary- and against- and but- and twin- and thou-

          sand-knot], which

          the Shrove Tuesday eyed bride

          of the marten stars in the abyss

          spelled, spelled, spelled

          out, out.)

 

[177]  Rainer Maria Rilke, Die zehnte Elegie:

 

          Und höher, die Sterne, Neue. Die Sterne des Leilands

          Langsam nennt sie die Klage; –  Hier,

          siehe: den Reiter, den Stab, und das vollere Sternbild

          nennen sie: Fruchtkranz. Dann, weiter, dem Pol zu:

          Wiege, Weg; Das Brennende Buch; Puppe; Fenster.

          Aber im südlichen Himmel, rein wie im Innern

einer gesegneten Hand, das klar erglänzende ‘M’,

das die Mütter bedeutet…

 

          And, higher, the stars. New ones. Stars of the Land of Pain

          Slowly she names them: There –

          Look: the Rider, the Staff, and that fuller constellation

       they call Fruitgarland. Then further, towards the Pole:

          Cradle, Way, The Burning Book, Doll, Window.

          But up in the southern sky, pure as within the palm

          of a consecrated hand, the clearly-resplendent M,

          standing for Mothers…

                                                          ( bản Anh văn của J.B. Leishman & Stephen Spender)

 

[178]  Aris Fioteros, Nothing trong Word Traces trang 333: Terribly, such a resistance makes no semantic difference – in that sense, it is like a shibboleth. Occuring only in texts and thus making a difference, writing the text apart, Celan’s stars shed light on that which can never be given words. They realize this  nothing, and thus mark the actuality of a history to which only reading can attest.

 

 

(c̣n tiếp)

 

đào trung đạo

 

http://www.gio-o.com/DaoTrungDao.html

 

 

© gio-o.com 2016