ĐÀO TRUNG ĐẠO

thi sĩ / thi ca

(3)

 

 Kỳ 1, Kỳ 2, Kỳ 3, 

 

 

Giải thích cụm từ “Immer-noch/Nay vẫn” Celan viết “Nhưng Nay-vẫn chỉ có thể là một hành vi nói. Không chỉ đơn giản ngôn ngữ và rất có thể cũng không chỉ có gốc gác từ sự “trao đổi” lời nói (Dieses Immer-noch kann doch wohl nur ein Sprechen sein. Also nicht Sprache schlechthin, und vermuthlich auch nicht erst vom Wort her Entsprechung). Nay-vẫn của những bài thơ chỉ thể t́m thấy trong một bài thơ do một người nào đó viết ra, người này không quên rằng hắn nói từ một góc độ ngả về chính hữu của hắn, tính chất là sinh vật của hắn. Như thế một bài thơ có thể là – rơ rệt ngay cả hơn trước đây – ngôn ngữ-trở thành-h́nh thái của một người duy nhất, đi theo bản chất nội tại của nó, tính chất hiện tại và sự hiện diện (Dann ware das Gedicht…gestaltgewordene Sprach eines Einzelnen, und seinen innersten Wesen nach Gegenwart und Präsenz). Bài thơ là một ḿnh (einsam). Một ḿnh và trên đường đi tới (einsam und unterwegs). Bất kỳ kẻ nào viết ra một bài thơ kẻ đó đă sống cùng với bài thơ. Thế nhưng, nếu chỉ trong cách thế đó bài thơ có đứng, ngay ở đó, trong một gặp mặt – trong sự bí ẩn của một gặp mặt không (im Geheimnis der Begegnung)? Bài thơ muốn vươn tới một Người khác, nó cần Người khác này, nó cần một Mở-về. Nó t́m kiếm sự Mở-về này, nói hướng về sự Mở-về. Bởi bài thơ hướng về một Người khác, nên mỗi sự vật, mỗi nhân hữu đều là một h́nh thái của Người khác này.” Nói về sự chăm chú của một bài thơ Celan cho sự chăm chú này tận hiến cho mọi gặp mặt bằng cảm thức rơ nét về chi tiết, phác họa, cấu trúc, màu sắc và cả “những run rẩy” và “những báo hiệu”. Chăm chú có nghĩa sự tập trung để nhớ đến những thời điểm. Celan đặt câu hỏi: dưới những điều kiện nào một bài thơ “trở thành một cuộc tṛ truyện, đối thoại, đôi khi là một đối thoại tuyệt vọng? Cái được nói với ch́nh nó tạo thành trong không gian của việc tṛ chuyện này, thu tập quanh cái Tôi đang nói với và đặt tên nó. Thế nhưng cái được hỏi han, nói với nay trở thành một Thou/Ngươi qua sự đặt tên, như thế, cũng mang theo nó tính chất cái khác của nó vào trong sự có mặt này” (es wird Gespräch – oft ist es  verzweifeltes Gesspräch. Erst im Raum dieses konstituiert sich das Angesprochen, versammelt es sich um das es ansprechende und nennende Ich. Aber in dieses Gegenwart bringt das Angesprochen und durch Nennung gleichsam Du Geworden auch sein Andersein mit.) Nơi chốn của bài thơ theo Celan chính là nơi chốn “mở ra” trống không và tự do, một không gian khả hữu cho Begegnung/Chạm mặt, gặp gỡ.

 

Để kết thúc Celan quay trở lại điểm khởi đầu bài diễn từ để “hỏi về cùng một sự việc càng ngắn gọn càng hay và từ môt hướng khác” bằng cách đọc bốn câu thơ đă viết mấy năm trước: “Những tiếng nói từ cây tầm ma gai trên đường:/Hăy mang trên tay đến chúng tôi/Bất kỳ ai một ḿnh với cây đèn/chỉ có bàn tay để đọc”. Và một năm trước đây, để kỷ niệm một cuộc gặp gỡ bất thành trong Engadin, tôi đă viết xuống một câu chuyện nhỏ bé trong đó có một nhân vật “gần giống như Lenz” đi bộ qua những rặng núi. Trong cả hai trường hợp tôi đă bắt đầu viết từ một “ngày 20 tháng Giêng,” từ cái ngày “20 tháng Giêng” của tôi. Tôi đă gặp gỡ…chính tôi.” Và Celan đặt câu hỏi phải chăng một người khi suy nghĩ về những bài thơ th́ người đó có đi trên những con đường như vậy với những bài thơ không? Đó có phải là những con đường đi từ thou đến thou không? “Vậy mà cùng lúc, giữa biết bao con đường khác, những bài thơ cũng là những con đường trên đó ngôn ngữ lấy được một tiếng nói, những bài thơ là những cuộc gặp gỡ, những con đường của một tiếng nói đi tới sự nhận ra một Thou, những con đường có tính chất sáng tạo, có lẽ là những nét phác thảo của một hiện hữu, một sự đưa ḿnh về phía trước hướng đến chính ḿnh, trong một cuộc t́m kiếm chính ḿnh…Một thứ trở về nhà.” Celan trong việc đi t́m nguồn cội của chính ḿnh bằng ngón tay vụng về trên tấm bản đồ thời thơ ấu nhưng không thấy được môt nơi nào bởi v́ những nơi chốn này không hiện hữu nhưng vẫn hy vọng “nhưng tôi biết rằng ở nơi đâu, nhất là giờ đây, trong sự hiện diện của quí vị, những con đường này tất phăi hiện hữu, và tôi t́m thấy một cái ǵ đó!...an ủi tôi chút đỉnh v́ đă, trong sự hiện diện của quí vị, chọn con đường bất khả này, con đường của sự bất khả. Tôi t́m thấy một cái ǵ đó gắn kết và dẫn tới sự gặp gỡ, như một bài thơ. Tôi t́m thấy một cái ǵ đó – giống như ngôn ngữ  –  tuy không là vật chất nhưng thuộc về trái đất, trên mặt đất, một cái ǵ đó h́nh tṛn, tự trở lại với chính nó theo cả hai cực và do đó – thật hạnh phúc – dù băng qua những chí tuyến [tropics] và những chuyển nghĩa [tropes]): tôi t́m thấy…một kinh tuyến.” Chúng ta thấy ở đây Celan chơi chữ “tropic/trope.” Và cho đến cuối bài diễn từ chúng ta mới hiểu tại sao Celan lại đặt tên bài diễn từ là Das meridian/Kinh tuyến.

 

Cách Celan diễn giải Büchner trong bài diễn từ có thể coi là cách Auseinandersetzung/đối mặt của Heidegger khi đọc những thi sĩ như Hölderlin, Tralk, Rilke... nghĩa là coi vấn đề tự-đặt-ḿnh, tự chọn chỗ đứng như một lực đẩy cho việc đọc và phê b́nh có tính chất suy tưởng. Ngay trong tựa đề bài diễn từ Das Meridian/Kinh tuyến chúng ta đă nhận ra Celan muốn mô tả chuyển vận tự đặt ḿnh, xác định mối quan tâm không phải là lịch sử văn chương nhưng là mối tương quan giữa văn chương và lịch sử, với sử tính của văn chương có điểm nhấn là ở đây, hôm nay, nghĩa là trong hiện tại. Nói thế khác khi nói về Büchner Celan lấy khởi điểm là Büchner giờ đây quan trọng ra sao đối với chúng ta. Celan xác định: Thi ca phải trở lại với câu hỏi Büchner đặt ra với nghệ thuật xem có phải đó là tra vấn về chính nghệ thuật không. Với tâm thế tra vấn không hẳn có ư thức rơ rệt, câm nín, Celan t́m thấy ở Büchner những thứ kỳ lạ/quái xưa cũ về nghệ thuật. Thế nhưng những thứ này vẫn “ở trong bầu không khí” chúng ta hít thở, có tính cách lịch sử. Hơi thở là một từ có ư nghĩa đặc biệt của Celan: đó chiều hướng và sinh mệnh như những bài thơ trong tập Atemwende/Xoay ngược hơi thở của Celan cho thấy. Với Celan Thơ đồng nghĩa với Thở. Từ Büchner, từ bản văn của Büchner với câu hỏi/tra vấn về nghệ thuật Celan tuy đứng từ một khoảng cách nhưng không ngừng mang theo, đẩy xa câu hỏi/tra vấn của Büchner, theo hướng Büchner chỉ ra trong một đoạn văn của truyện ngắn Lenz [đoạn văn Lenz tả cảnh hai thiếu nữ ngồi trên tảng đá]. Mang suốt theo, đẩy xa câu hỏi có nghĩa làm một quay trở lại để theo dơi đối tượng đúng là của sự quan tâm trong bản văn. Chính ở chỗ này Celan t́m ra nơi chốn để Thi ca hôm nay từ đó làm một bước giải phóng khỏi nghệ thuật. Lời nói phản công/pháo (counter word) của Lucille “Hoàng đế vạn tuế!” như một sự cắt đứt giữa nghệ thuật và thi ca được Celan nhắc đi nhắc lại sau khi nói về “vấn đề muôn thưở” của nghệ thuật trong tính chất kỳ lạ/quái của nó. Celan t́m thấy điểm “quay trở lại” trong câu hỏi/tra vấn của Büchner liên quan tới việc nghệ thuật sử dụng những phương tiện của nó để phục vụ “cái tự nhiên và cái có tính sáng tạo”. Celan nhận ra có sự đứt rời của hai tính chất này khi nói “Đôi khi người ta muốn là cái đầu của Medusa để biến một nhóm như vậy thành đá và qui tụ mọi người quanh cái đầu này.” “Một nhóm” ở đây dùng để chỉ những người chủ trương nghệ thuật nhằm “nắm bắt cái tự nhiên như tự nhiên” tức là bước ra khỏi cái ǵ là con người. Sự kỳ lạ/quái của câu nói này của Lenz và sự kỳ lạ/quái trong mô tả của Lenz về cô gái ngồi trên tảng đá cuốn cao bồng tóc chỉ ra cho Celan thấy nỗ lực thẩm mỹ của Lenz – cũng chính là của Büchner – nhằm ngầm đặt ḿnh ra khỏi chủ thuyết coi nghệ thuật là mô phỏng (mimesis) – một chủ thuyết “cổ xưa và tính chất kư lạ xưa cũ nhất” – Celan ám chỉ chủ thuyết nghệ thuật của Platon. Trong bài Catastrophe/Tai họa  Philipp Lacoue-Labarthe cũng cho rằng qui chiếu này cùa Celan khi nói về khía cạnh kỳ quái của mô phỏng chính yếu tố giác tính chất tha hóa, một sự tha hóa có khả năng làm cho người làm nghệ thuật “quên đi bản thân”. Tuy Büchner cũng gần như quên bản thân, theo Celan, và chính v́ thế sự tra vấn về nghệ thuật của Büchner tuy mới chỉ là “ư thức nửa chừng” nhưng cũng v́ đă tra vấn khá đủ, đă đi khá xa, nên đă đề nghị ra được một khả tính khác của nghệ thuật. Khi Celan cho rằng đoạn văn của Lenz được viết – giống như lời phản công/pháo của Lucille – từ kinh nghiệm về cái chết và cho đó là dấu chỉ của Thi ca, dấu chỉ này “xông lên phía trước” và t́m cách “nhận ra một diện mạo trong hướng của nó.”

 

       Jacques Derrida sau khi trích dẫn bản dịch đoạn kết luận bài diễn từ của Jean Launay đưa ra diễn giải: “tôi đă gặp – chính tôi như một người khác, một ngày 20 tháng Giêng như một người khác, và như Lenz, như chính Lenz, “wie Lenz”: những ngoặc kép quanh biểu thức trong bản văn làm nổi bật giá trị, sự không bền vững của diện mạo. Đó cũng là, từ như đó, dấu chỉ của một sự bắt buộc phải hiện ra trong chính sự so sánh. Cái người mà tôi đă mô tả, đă viết, đă kư tên, đă y hệt như Lenz, gần như chính là Lenz, như đúng là Lenz. Từ  wie có giá trị gần giống như giá trị của từ als. Nhưng đồng thời, là chính tôi bởi trong diện mạo của người khác này, như người khác, tôi đă gặp gỡ ngày tháng này. Từ như và việc cùng kư tên ngày tháng, diện mạo hay chính h́nh ảnh, mỗi lần, của người khác “một lần và lần khác” một lần như lần khác. Đó sẽ như là ṿng kỷ niệm của ngày tháng. Trong Kinh tuyến, đó cũng chính là sự kiếm t́m, sự gặp gỡ nơi chốn của kẻ gặp gỡ, sự khám phá ra chính kinh tuyến.”(8)

 

Đọc thơ Celan:

PSALM                                                                 

Niemand knetet uns wieder aus Erde und Lehm, 

Niemand bespricht unsern Staub.   

Niemand.                                                               

 

Gelobt seist du, Niemand.                                    

Dir zulieb wollen                                                     

wir blühn.                                                                                     

Dir                                                                                    

entgegen.                                                                                                                                 

Ein Nichts                                                                                    

warren wir, sind wir, warden                                            

wir bleiben, blühend:                                                         

die Nichts-, die                                                      

Niemandsrose.                                                                   

 

Mit                                                                         

dem Griffel seelenhell,                                            

dem Staubfaden himmellswüst,                            

der Krone rot                                                                                            

vom Purpurwort, das wir sangen                          

über, o über                                                                       

dem Dorn.                                                             

 

(Trong tập Die  Niemandsrose/Bông Hồng Không Của Ai) (9)                                                           

THÁNH CA

 

Không ai c̣n nhào nặn chúng ta bằng đất thịt và đất sét nữa

không ai c̣n ngỏ lời trên tro bụi chúng ta.

Không ai.

 

Cầu nguyện ban phước lành nhân danh ngươi. Không ai.

để thỏa ḷng ngươi chúng tôi sẽ

trổ hoa

chính ngươi

cưỡng lại

 

Một không là ǵ     

chúng ta đă, giờ đây là, và măi măi

sẽ, nở hoa

cái không là ǵ-, bông

Hồng-Không-Của-Ai

 

Với

cuống tỏa-sáng-linh hồn

đài nhụy-thiên-đường-cuồng-nộ

ṿng hoa đỏ thắm

bằng lời đỏ xậm chúng tôi ca hát

trên, trên

gai nhọn.

 

[Celan làm bài thơ này vào ngày mùng 5 tháng Giêng 1961. Jean-Pierre Lefevre chú giải một số từ chuyên môn về thảo mộc đươc Celan sử dụng như từ đa nghĩa trong bài thơ: Lehm để chỉ đất sét, Griffel nghĩa đen là cuống hoa (style), cũng có nghĩa mũi nhọn để viết trên bảng đá, văn tự (écriture), Staubfaden nghĩa đen là đài nhụy hoa, Wüst chỉ sự khô cằn của những vùng đất bỏ hoang, nhưng cũng dùng để chỉ sự mất trật tự chẳng hạn mái tóc bờm sờm, sự thiếu kiểm soát, tính chất thô lậu, xấu xa mất thẩm mỹ và sự nổi khùng phá hoại.]

 

                                           TENEBRAE

                                          

Nah sind wir, Herr,

                                           nahe und greifbar.

 

                                           Gegriffen schon, Herr,

                                           ineinander verkrallt, als wär

                                           der Leib eines jeden von uns

                                           dein Leib, Herr.

 

                                           Bete, Herr,

                                           bete zu uns,

                                           wir sind nah.

 

                                           Windschief gingen wir hin,

                                           gingen wir hin, uns zu bücken

                                           nach Mulde und Maar.

 

                                           Zur Tränke gingen wir, Herr.

 

                                           Es war Blut, es war,

                                           was du vergossen, Herr.

 

                                           Es glänzte.

 

                                           Es war funs dein Bild in die Augen, Herr.

                                           Augen und Mund stehn so offen und leer, Herr.

                                           Wir haben getrunken, Herr.

                                           Das Blut und das Bild, das im Blut war, Herr.

 

                                           Bete, Herr.

                                           Wir sind nah.

                                                                   (Trong tập Sprachgitter/Lời qua Lưới)

 

                               TENEBRAE

 

                               Chúng tôi bên nhau, thưa Ngài.

                               bên nhau và có thể nắm chặt tay nhau

 

                               Đă nắm chặt tay nhau, thưa Ngài,

                               xiết chặt tay nhau, như thể

                               thân xác mỗi chúng tôi là

                               thân xác ngài, thưa Ngài.

 

                               Xin hăy cầu nguyện, thưa Ngài,

                               cầu cho chúng tôi,

                               chúng tôi bên nhau.

 

                               Nghiêng ḿnh chúng tôi đến đó,

                               đến đó để cúi ḿnh

                               trên chỗ hổng và miệng hố.

 

                               Chúng tôi đến đó để uống, thưa Ngài.

 

                               Đó là máu, đó là

                               cái ngài đă đổ xuống, thưa Ngài.

 

                               Nó lập ḷe sáng.

 

                               Nó thả h́nh ảnh ngài vào trong mắt chúng tôi, thưa Ngài.

                               Mắt chúng tôi và miệng ngài mở thật rộng và trống không, thưa Ngài.

                               Chúng tôi đă uống, thưa Ngài.

                               Máu và h́nh ảnh trong máu, thưa Ngài.

 

                               Xin hăy cầu nguyện, thưa Ngài.

                               Chúng tôi bên nhau.

 

 

                               HEIMKEHR

 

                               Schneefall, dichter und dichter,

                               Taubenfarben, wie gestern,

                               Schneefall, als schliefst du auch jetzt noch.

 

                               Weithin gelagertes Weiß.

                               Drüberhin, endlos,

                               die Schlittenspur des Verlornen.

 

                               Darunter, geborgen,

                               stülpt sich empor,

                               was den Augen so weh tut,

                               Hügel um Hügel,

                               Unsichtbar.

 

                               Auf jedem,

                               heimgeholt in sein Heute,

                               ein ins Stumme entglittenes Ich:

                               hölzern, ein Pflock.

 

                               Dort: ein Gefühl,

                               vom Eiswind herübergeweht,

                               das sein tauben-, sein schnee-

                               farbenes Fahnentuch festmacht.

                                                                               (Trong tập Sprachgitter)

                              

VỀ NHÀ

 

Tuyết rơi, càng lúc càng dầy hơn,

xám xanh, như hôm qua,

tuyết rơi, như thể ngươi ngủ miết .

 

Trắng, khuất tầm mắt.

Ở trên, vô tận,

dấu xe trượt tuyết của kẻ đă chết.

 

Ở dưới, ẩn náu,

nhô cao

khiến mắt nhức nhối,

đồi lại đồi,

không thể thấy.

 

Trên mỗi,

kẻ hồi hương trong ngày hôm nay của ḿnh,

một cái Tôi lẩn trốn vào câm lặng:

của gỗ, cái cột.

 

Dưới kia: một t́nh cảm

gió buốt mang tới đây.

Bám chặt tấm vải mầu

xám xanh, tuyết, như lá cờ.

 

 

_____________________________________

(8)     Jacques Derrida, Schibobboleth, nxb Galilée 1986, 126 trang. Bài này đă được Derrida tŕnh bày trong cuộc Hội thảo Quốc tế về Paul Celan tổ chức vào tháng 10, 1984 ở đại học Washington, thành phố Seatle tiểu bang Washington qui tụ trên 20 người tham dự gồm triết gia, giáo sư đại học, dịch giả Paul Celan như: Beda Allermann, Jacques Derrida, Stéphan Mosés, Hans-Georg Gadamer, Bern Witte, David E. Wellbery, Rolf Bücher, Jean Bollach, Rainer Nägel, Michael Hamberger…được Amy D. Colin biên tập và xuất bản dưới tựa đề Argumentum e Silentio: International Paul Celan Symposium, nxb Walter de Gruyter, 1986, 450 trang. Ngoài bài Schibobboleth Derrida c̣n có các bài viết khác về Celan: Poétique et politique du témoignage (Galilée 2004), bài phỏng vấn về Celan La langue n’appartient pas (2001), Beliers: Le dialogue ininterrompu: Entre deux infinis, le poème (2003), La vérité blessante (Galilée 2004), Majesties trong quyển La bête et le souverain (Galilé 2005). Có thể đọc bản dịch sang Anh văn những bài này trong Jacques Derrida, Sovereignties in Question, The poetics of Paul Celan do Thomas Dutois và Outi Pasaen biên tập, nxb Fordham University Press 2005. Hiện nay ngoài tuyển tập về Celan Argumentum e Silentio: International Paul Celan Symposium có hai tuyển tập khác có giá trị về tham khảo là quyển Paul Celan, Poésie et Poétique do Rémy Colombat, Jean-Pierre Lefevre và Jean-Marie Valentin chủ biên, nxb Klincksieck, 2002 qui tụ bài viết của 18 giáo sư Pháp-Đức và quyển Word Traces do Aris Fioretos chủ biên, nxb John Hopkins University Press, 1994 qui tụ 12 bài viết của các giáo sư Pháp-Mỹ-Đức-Do thái-Thụy điển.

Trích dẫn trang 26-27: “J’ai, voici des ans, écrit un bref quatrain – tel: “Appels de l’ortie en chemin:/ Porte-toi sur les mains vers nous./ Qui est avec la lampe seul,/ n’a pour lire que la main”. Et voici un an, remémoration d’une rencontre manquée dans l’Engadine, j’ai porté au net un bref récit où, à l’instar de Lenz, j’ai découverte à quelqu’un un chemin en montagne.

          “Je m’étais, l’une et l’autre fois, à partir d’un “20 Janvier”, le mien, sur tel pas transcrit.

          “Une rencontre m’a mis en présence de…moi-même.”

          Je me suis rencontré – moi-même comme l’autre, un 20 Janvier comme l’autre, et comme Lenz, comme Lenz lui-même, “wie Lenz”: les guillemets autour de l’expression mettent en valeur, dans le texte, l’insolite de la figure.

          C’est aussi, ce comme, le signal d’une sorte de comparution dans la même comparaison. Cet home que j’ai décrit, écrit, signé, était tout comme Lenz, presque comme Lenz lui-même, en tant que Lenz. Le wie a presque la valeur d’un als. Mais en même temps, c’est moi puisque dans cette figure de l’autre, comme l’autre, je me suis rencontré à cette date. Le comme et la cosignature de la date, la figure ou l’image même, chaque fois, de l’autre, “l’une et l’autre fois”, une fois comme l’autre fois (das eine wie das andere Mal). Tel serait le tour anniversaire de la date. Dans Le Méridien, c’est aussi la trouvaille, la rencontre du lieu de rencontre, la découverte du meridien lui-même.

          Derrida trích dẫn nguyên bản của Celan: Meine Damen und Herren, ich habe vor einigen Jahren einen kleinen Vierzeiler geschrieben diesen: “Stimmen vom Nesselweg her:/Kommen auf den Händen zu uns./Wer mir der Lampe allein ist,/ hat nur die Hand, draus zu lessen.” Und vor einem Jahr, in Erinnerung an eine versäumte Begegnung im Engadin, brachte ich eine kleine Geschichte zu Papier, in de rich einen Menschen “wie Lenz” durchs Gebirg gehen liess. Ich hatte mich, das eine wie das endere Mal, von einen “20. Jänner”, Ich bin…mir selbst begegnet.”

 

(9)

 

Bản dịch Pháp văn của Martine Broda:                                 

 

PSAUME                       

Personne ne nous repétrira de terre et de limon,     

personne ne bénira notre poussière.                                                          

Personne.

 

Loué sois-tu, Personne

Pour l’amour de toi nous voulons                                                                                                      

fleurir.

Contre                                                                                                            

toi.                                                                                                   

 

Un rien                                                                                                            

nous étions, nous sommes, nous                                                               

resterons, en fleur:                                                                        

la rose de rien, de                                                                                                                          

               personne.

 

Avec                                                                                                               

le style clair d’âme,                                                                      

l’étamine désert-des-cieux,                                                         

la couronne rouge                                                                        

du mot de pourpre que nous chantions                                   

au-dessus, au-dessus de                                                                              

l’épine.                                                                                                            

 

Bản dịch Pháp văn của Jean-Pierre Lefevre:

 

PSAUME

Personne ne nous pétrira de nouveau de terre et d’argile

personne ne soufflera la parole sur notre poussière.

Personne.

 

               Loué soit-tu

C’est pour te plaire que nous voulons

fleurir.             

À ton

encontre.

 

Un Rien

voilà ce que nous fûmes, sommes et

resterons, fleurissant:

la Rose de Néant, la

Rose de Personne.

 

 

 

Bản Anh văn của Michael Hamberger:

 

PSALM          

 

No one moulds us again out of earth and clay                                      

no one conjures our dust.                                                                           

No one.                                                                                                           

 

Praised be your name, No one.                                                  

For your sake                                                                                

we shall flower                                                                                              

Towards                                                                                                         

you.                                                                                                 

 

A nothing                                                                                       

we were, are, shall                                                                        

remain, flowering:                                                                        

the nothing-, the                                                                                           

No one’s rose.

 

With                                                                                                

our pistil soul-bright,                                                                    

with our stamen heaven-ravaged,                                                            

our corolla red                                                                                               

with the crimson word which we sang                                      

over, O over                                                                                   

the thorn.                                                                                       

 

Bản Anh văn của Pierre Joris:

 

PSALM          

 

Noone kneads us again from earth and loam,       

noone evokes our dust

Noone.

 

Praised be you, noone.

Because of you we wish

to bloom.

Against

you.

 

A nothing

we were, are we, will

we be, blossoming:

the nothing’s- the noonesrose.

 

With

its pistil soulbright,

its stamen heavencrazed,

its crown red

from the purpleword that we sang

over, o over

its thorn.

 

(c̣n tiếp)

 

ĐÀO TRUNG ĐẠO

 

http://www.gio-o.com/DaoTrungDao.html

 

 

© gio-o.com 2015