ĐÀO TRUNG ĐẠO

thi sĩ / thi ca

(14)

 

    ĐỌC THƠ PAUL CELAN

Peter Szondi đọc bài “Engführung (68)

 

            Kỳ 1, Kỳ 2, Kỳ 3, Kỳ 4, Kỳ 5, Kỳ 6, Kỳ 7, Kỳ 8, Kỳ 9, Kỳ 10, Kỳ 11, Kỳ 12, Kỳ 13, Kỳ 14,    

 

   Engführung là một bài thơ khá dài gồm 9 khổ, câu thơ được tỉnh lược và nhiều ẩn dụ nên khó đọc tuy đó là một trong những bài thơ hay nhất của Celan.

Trước hết Szondi trích ba câu thơ mở đầu:

            Verbracht ins

Gelände

mit der untrüglichen Spur:

 

Bị di dời vào

trong vùng đất

với dấu vết không-đánh lừa

 

ba câu mở đầu này đă lập tức gây khó cho người đọc đồng thời Szondi cũng cho rằng nếu dùng những cách diễn giải văn chương  truyền thống th́ kết quả sẽ là sự bóp méo cả việc đọc lẫn bản văn được đọc. V́ người đọc lập tức đụng phải câu hỏi “Gelände /mit der untrüglichen Spur” nghĩa là ǵ và rồi sẽ dùng cách t́m đến những câu thơ khác trong bài thơ này cũng có những thành ngữ tương tự để so sánh và t́m hiểu ư nghĩa ba câu thơ mở đầu. Thế nhưng, theo Szondi, cứ giả thiết người đọc cho rằng có sự đồng nhất của những thành ngữ này trong những văn mạch khác nhau đi nữa (điều này phải đặt thành vấn đề) và nếu như sự diễn giải một trong những đoạn văn này làm rơ được cách sử dụng những từ trong câu thơ th́ hậu quả sẽ là: câu thơ tuy rơ nghĩa nhưng lại đă không được hiểu, bởi nó chỉ là nó như vậy trong một cách dùng đặc biệt, một cách dùng chống lại việc hiểu. “Đó là lư do tại sao chúng ta phải tạm thời thôi đừng thắc mắc về cụm từ “der untrüglichen Spur/ dấu vết không-đánh lừa” nghĩa là ǵ nữa, và thay vào đó ghi nhận rằng ba câu thơ mở đầu này không nói cho chúng ta biết nó là ǵ, mặc dầu việc sử dụng mạo từ chỉ định được lặp lại gợi ư rằng người đọc không biết “vùng đất” và “dấu vết” được nói đến là vùng đất và dấu vết nào. Mở đầu của bài thơ “Engführung” thành ra không mấy được xác định bởi ư nghĩa (tiềm ẩn) của những thành ngữ được dùng trong bài thơ mà đúng ra là bởi sự kiện người đọc thấy ḿnh đồng thời bị kéo vào trong một văn mạch ḿnh không nhận ra và bị đối xử như thể quen thuộc với ḿnh; hay, chính xác hơn, nguời đọc bị đối xử như một người nào đó không có quyền hiểu. Ngay từ khởi đầu, người đọc đă bị trục xuất – verbracht, “bị cưỡng bức lôi đi” – đến một vùng đất vừa xa lạ vừa lạ lùng. Có phải đó là “trong vùng đất/với dấu vết không-đánh lừa?” Chúng ta không biết, chưa biết. Thế nhưng giờ đây nó đă được thiết lập rằng nếu như mấy gịng đầu tiên này định rơ một qui chiếu th́ người đọc không thể chấp nhận một cách an toàn những gịng này mà lại không qui chiếu về ḿnh.(69) V́ sự không rơ ràng về văn phạm nên rất có thể người đọc cho rằng “Gras, auseinandergeschrieben/ cỏ, chữ viết rời rạc” bị di dời đến “vùng đất với dấu vết không thể nhầm lẫn” nên có thể nói sự nối kết khổ thơ đầu với khổ kế tiếp không rơ ràng. Szondi cho rằng sự mơ hồ này không phải là lỗi văn phạm hay thuần túy chỉ là một đặc điểm văn phong nhưng cốt để qui định cấu trúc của chính bản văn thi ca.

 

   Câu thơ thứ 4 và 5 “Gras, auseinandergeschrieben (2). Die Steine, weiß, mit den Schatten der Halme/ Cỏ, chữ viết rời rạc. Những tảng đá, màu trắng, với bóng của những cọng cỏ” theo Szondi tuy là quang cảnh (scene) nhưng ở đây lại là một phong cảnh (landscape) nhưng Celan lại mô tả như một phong cảnh được viết (a written landscape) và cỏ là “chữ viết rời rạc”. Nếu hiểu theo kiểu giảng văn (explication de texte) truyền thống người đọc dĩ nhiên hiểu là cỏ trong phong cảnh này được so sánh với những từ/chữ và rằng sự tương đồng giữa cỏ và chữ viết đă cho phép thi sĩ nói “cỏ, chữ viết rời rạc” từ đó cho rằng cỏ đă rời ra thành chữ viết và bản văn thi ca không là ǵ khác hơn cỏ bởi v́ “vùng đất/với những dấu vết không thể lầm lẫn” cũng là bản văn người đọc bị di dời sang. Câu hỏi đặt ra là phong cảnh-bản văn (ladscape-text) là ǵ, và câu hỏi này thi sĩ trả lời đó là “Những tảng đá, màu trắng…” cho thấy vùng đất này không những được cấu tạo bởi tính chất trắng (whiteness), sự trồng rỗng, mà c̣n bởi đá và bóng những cọng cỏ. Câu hỏi kế tiếp sẽ là “nhưng tảng đá này phải chăng là những nấm mồ hay chỉ là những tảng đá theo nghĩa thường, những h́nh thức vụn vỡ và che chở những ngôi sao và những con mắt vốn chiếm một vị trí quan trọng trong “vũ trụ tưởng tượng” của Celan. Theo Szondi “Chúng ta không biết, và điều này có nghĩa gần như chính xác rằng đó không phải là cái để chúng ta hiểu. Cái được hiểu, được thấy, là tính chất bản văn của vùng đất. Một khi cỏ đă thành chữ, màu trắng của đá cũng là màu trắng của trang giấy – chính tính chất trắng chỉ bị gián đoạn bởi những chữ “cọng cỏ”, hay đúng hơn bởi những cái bóng chúng phủ xuống. Phong cảnh-bản văn này là một vùng đất định mệnh, tang chế. Người ta rất có thể bị thúc dục nói rằng người đọc thấy ḿnh bị di dời đến một quang cảnh bị chế ngự bởi cái chết và bóng tối – những kẻ đă chết và kư ức về họ. Thế nhưng, một lần nữa, những diễn giải như vậy bị loại trừ bởi tính chất bản văn của một quang cảnh không chỉ là chủ đề của cái ǵ chúng ta đọc – mà cái chúng ta đọc. Đó là lư do tại sao những trật tự thi sĩ đưa ra – cho chính ông ta, cho người đọc? chắc chắn là cho cả hai – không được dùng như một dẫn nhập, như chúng có thể là như vậy trong một thứ thi ca nào đó. Người ta có thể nhận được và bước theo những trật tự này một khi đă bị “di dời” tới bản văn-vùng đất.”(71)

 

   Szondi giải thích hai câu thơ tiếp theo “Lies nicht mehr – schau!/Schau nicht mehr – geh! Không đọc – nh́n!/Không nh́n – đi!”: những hành động kết hợp đọc và nh́n thích ứng cho vùng đất mơ hồ này, vùng đất vừa là bản văn vừa là quang cảnh. Mệnh lệnh thứ nhất thay tiến tŕnh nh́n bằng tiến tŕnh đọc để bỏ lại tính chất bản văn của phong cảnh như thể coi quang cảnh như quang cảnh. Mệnh lệnh thứ nh́ trái ngược với mệnh lệnh thứ nhất và xóa bỏ mệnh lệnh thứ nhất bằng cách thay nh́n bằng chuyển động đi. Szondi đặt câu hỏi: “Điều đó có phải có nghĩa bản văn được đọc và bức h́nh được nh́n phải nhường chỗ cho thực tại, cho phép người đọc-kẻ nh́n ngắm (reader-spectator) tiến bước, “đi”? Có và không. Đó không phải là hư cấu của tính chất bản văn, của thi ca, bị bỏ rơi để ưu đăi thực tại. Đó không phải là tính chất thụ động tiếp nhận của người nh́n ngắm-người đọc bị ép buộc phải nhường cho cái gọi là hành động, dấn thân. Ngược lại:  Chính bản văn từ chối phục vụ thực tại, không tiếp tục đóng vai tṛ đă được giao phó từ thời Aristotle. Thi ca đă thôi không c̣n là mô phỏng (mimesis), biểu tượng (representation); nó đă thành thực tại. Chắc chắn thế, đó là thực tại thi ca: bản văn thôi không c̣n được dùng để phục vụ một thực tại được định trước, nhưng đúng hơn nó tự phóng chiếu, tự tạo lập như thực tại. V́ vậy, chúng ta không c̣n “đọc” hay “nh́n bức h́nh nó có thể mô tả nữa. Điều nhà thơ đ̣i hỏi cả chính ông ta và người đọc là tiến bước, “đi” vào trong vùng đất là bản văn của ông ta.”(72)

 

   “Đi,” tiến bước nhưng đi thế nào và với lư do ǵ? Giải thích của thi sĩ nằm trong đoạn thơ kế tiếp:

Geh, deine Stunde

hat keine Schwestern, du bist –

bist zuhause. Ein Rad, langsam,

rollt aus sich selber, die Speichen

klettern,

klettern auf schwärzlichem Feld, die Nacht

braucht keine Sterne, nirgends

fragt es nach dir.

                       

Đi, thời khắc của ngươi

không có chị em, ngươi –

ngươi ở nhà ngươi. Một cái bánh xe, chậm răi

xoay quanh chính nó, những nan

bám trèo

bám trèo trên cánh đồng đen thẫm, đêm

không cần có sao, không nơi đâu

người ta âu lo về ngươi.

 

Szondi giải thích “thời khắc không có chị em” nghĩa là thời khắc của cái chết và khi tới đó con người là “ở nhà ḿnh.” Và chủ đề (topos) về nơi chốn của cái chết này trong trong tác phẩm của Celan có một ư nghĩa mới: Nếu như chết là một bến bờ con người phải quay trở lại không phải v́ đó là một cuộc du hành nhưng chết có nghĩa kư ức về cái chết nằm trong cội nguồn của toàn thể tác phẩm thi ca của Celan, thi ca này không mô tả “thực tại” nhưng chính nó là thực tại, nó tạo ra sư hiện hữu của thực tại này và người đọc “đi,” tiến bước vào cái “cánh đồng đen kịt” văn tự này. Szondi cảnh báo: việc thay thế thực tại bằng biểu tượng bản viết (textual representation) này không thể được coi như có tính cách thẩm mỹ mà đúng ra nó chứng nhận lời Celan xác quyết rằng phải tôn trọng thực tại cái chết, thực tại của trại giam chứ không được sử dụng để sản xuất ra bức tranh thi ca. Việc tôn trong thực tại thẩm mỹ thi ca của Celan hoàn toàn được dành cho kư ức về những người đă chết. Szondi diễn giải những câu thơ:

                                    Một cái bánh xe, chậm răi

xoay quanh chính nó, những nan

bám trèo

bám trèo trên cánh đồng đen thẫm, đêm

không cần có sao, không nơi đâu

người ta âu lo về ngươi.

chỉ ra: theo Celan thực tại của cái chết, nơi chốn con người trở về không cần có một động cơ nào để chuyển vận ngoài chính nó, động thái tiến tới của thi sĩ-người đọc đă là đủ cho việc “cái bánh xe chậm răi xoay quanh chính nó,” nhưng không phải chủ thể (ở đây là tác giả hay độc giả) bị đấy sang một bên, bị thay thế bởi cái bánh xe mà phải hiểu là khi chủ thể đă “ở nhà ḿnh” th́ chủ thể không c̣n là chủ thể nữa nhưng đi vào bản văn một cách triệt để hơn trong những câu thơ mở đầu, và như vậy chuyển vận diễn tiến của chủ thể trở thành chuyển vận diễn tiến của cái bánh xe: chủ thể không c̣n là người đọc hay kẻ quan sát cái ǵ nữa mà chính là ḿnh, trở thành cái bánh xe. “Và trong đêm đó, lănh địa của sự chết này sẽ không hiện hữu như thế nếu như nó được soi sáng bởi những ngôi sao, ‘không ai/lo âu về ngươi.’”(73) Về việc Celan lập lại “không ai/lo âu về ngươi” ở cuối khổ thơ thứ nhất (bài Engführung cả thảy gồm 9 khổ) ở câu thơ mở đầu cho khổ 2 có một h́nh thức đặc biệt: mỗi khi chuyển khổ chúng ta thấy Celan lập lại câu thơ cuối ở khổ trước đó nhưng được đặt (in) ở phía bên phải (nếu không có ǵ th́ đó là một khoảng trống rỗng) hoặc nguyên văn hoặc có thay đổi, xếp đặt lại.

                        Geh [….]

nirgends

fragt es nach dir.

 

                        Nirgends

                                                                                                fragt es nach dir –

Der Ort, wo sie lagen, er hat

einem Namen – er hat

keinen. Sie lagen nicht dort. Etwas

lag zwischen ihnen. Sie

sahn nicht hindurch.

 

Sahn nicht, nein,

redeten von

Worten. Keines

erwachte, der

Schlaf

kam über sie.

Sự lập lại này thoạt nh́n có thể gợi ra ư tưởng về một tiếng vọng (echo) nhưng có một ư nghĩa mới nếu ta xét nghĩa chính xác của từ “stretto” trong âm nhạc, và những ḍng thơ in ở phía tay mặt lập lại ḍng thơ cuối ở khổ trước nhằm tạo ra những ngả đi vào bị làm chậm lại nhưng thúc dục, khẩn cấp đúng như nét căn bản âm nhạc của “stretto.” Szondi cho rằng khái niệm “stretto” này có thể là không đầy đủ để định nghĩa một bản văn thi ca nhưng ta có thể dùng như một khởi điểm để hiểu cách Celan dùng việc lập lại vừa như một chức năng nối kết chặt chẽ những khổ thơ vừa như nối kết những giọng thơ khác nhau.(74)

________________________________

(68)  Engführung theo giải thích của Jean-Pierre Lefebvre tiếng Ư là strette là phần kết thúc của một tẩu khúc trong đó những ngả đi vào của chủ đề và câu đối đáp càng ngày càng được đặt gần nhau hơn. Nhưng từ tiếng Đức Engführung diễn tả trực tiếp và cụ thể tiến tŕnh khép lại tuần tự được kiểm soát này. Dịch sang Pháp văn người ta thường giữ nguyên tiếng Ư strette c̣n dịch sang Anh văn là stretto.

   Peter Szondi (1929-1971) gốc Hungary, giáo sư đại học Berlin Tự Do từ 1965, là một học giả văn chương và nhà ngữ văn nổi tiếng, chủ biên Celan-Studien, bạn thân của Paul Celan và cũng tự sát năm 1971 chỉ mấy tháng sau Celan. Theo Szondi bài thơ này của Celan có liên hệ tới cuốn phim Nuit et brouillard/Đêm và Sương mù của Alain Resnais, với diễn giải của Jean Cayrol và Celan đă dịch diễn giải của Jean Cayrol sang tiếng Đức cho ấn bản tiếng Đức của cuốn phim.

 

(69)  Nguyên văn tiếng Đức bài thơ cuối cùng trong tập Sprachgitter:

 

ENGFÜHRUNG

 

Verbracht (1) ins

Gelände

mit der untrüglichen Spur:

 

Gras, auseinandergeschrieben (2). Die Steine, weiß,

mit den Schatten der Halme:

Lies nicht mehr – schau!

Schau nicht mehr – geh!

 

Geh, deine Stunde

hat keine Schwestern, du bist –

bist zuhause. Ein Rad, langsam,

rollt aus sich selber, die Speichen

klettern,

klettern auf schwärzlichem Feld, die Nacht

braucht keine Sterne, nirgends

fragt es nach dir.

 

*

                                                                               

Nirgends

                                                                                                fragt es nach dir –

 

Der Ort, wo sie lagen (3), er hat

einem Namen – er hat

keinen. Sie lagen nicht dort. Etwas

lag zwischen ihnen. Sie

sahn nicht hindurch.

 

Sahn nicht, nein,

redeten von

Worten. Keines

erwachte, der

Schlaf

kam über sie.

 

*

 

                                                                Kam, kam, Nirgends

                                                                                                   fragt es –

 

Ich bins, ich,

ich lag zwischen euch, ich war

offen, war

hörbar, ich tickte (4) euch zu, euer Atem

gehorchte, ich

bin es noch immer, ihr

schlaft ja.

 

*

 

                                                                Bin es noch immer –

 

Jahre.

Jahre, Jahre, ein Finger

tastet hinab und hinan, tastet

umber:

Nachtstellen, fühlbar, hier

klafft es weit auseinander, hier

wuchs es weider zusammen – wer

dechte es zu?

 

*

 

                                                                Dechte es

                                                                                zu – wer?

               

Kam, kam.

Kam ein Wort, kam

kam durch die Nacht,

wollt leuchen, wollt leuchen.

 

Asche

Asche, Asche.

Nacht.

Nacht-und-Nacht. – Zum

Aug geh, zum feuchten.

 

*

 

                                                                Zum

                                                                      Aug geh,

                                                                                   zum feuchen –

 

 

Orkane.

Orkane, von je,

Partikelgestöber, das andre,

du

weißts ja, wir

lasens im Buche, war

Meinung.(5)

 

War, war

Meinung. Wie

faßten wir uns

an – an mit

diesen

Händen?

 

Es stand auch geschrieben, daß.

Wo? Wir

taten ein Schweigen darüber,

giftgestillt (6), groß,

ein

grünes

Schweigen, ein Kelchblatt, es

hing ein                 Gedanke an Pflanzliches dran –

grün, ja,

hing, ja,

unter hämischem

Himmel.

An, ja,

Pflanzliches.

 

Ja.

Orkane, Par-

tikelgestöber, es blieb

Zeit, blieb,

es beim Stein zu versuchen – er

war gastlich, er

fiel nicht ins Wort. Wie

gut wire es hatten:

 

Körnig,

körnig und faserig. Stengelig,

dicht;

traubig und strahlig; nierig,

plattig, und

klumpig; locker, ver-

ästelt –  : er, es

fiel nicht ins Wort, es

sprach,

sprach gerne zu trockenen Augen, eh es sie schloß.

 

Sprach, sprach.

War, war.

 

Wir

ließen nicht locker, standen

inmitten, ein

Porenbau, und

es kam.

 

Kam auf uns zu, kam

hindurch, flickte

unsichtbar, flickte

an der letzten. Membran,

und

die Welt, ein Tausendkristall,

schoß an, schoß an.(7)

 

*

 

                                                                                Schoß an, schoß an.

                                                                                                                  Dann –

Nächte, entmischt. Kreise,

grün oder blau, rote

Quadrate: die

Welt setzt ihr Innerstes ein

im Spiel mit den neuen

Stunden. – Kreise,

rot oder schwarz, helle

Quadrate, kein

Flugschatten,

kein

Meßtisch (8), keine

Rauchseele steig und spielt mit.

 

*

 

                                                                                Steig und

                                                                                                spielt mit –

 

In der Aulenflucht (9), beim

versteinerten Aussatz (10),

bei

unsern geflohenen Händen, in

der jüngsten Verwerfung,

überm

Kugelfang an

der verschütteten Mauer:

 

sichtbar, aufs

neue: die

Rillen, die

 

Chöre, damals, die

Psalmen. Ho, ho-

sianna.

 

Also

stehen noch Tempel. Ein

Stern

hat wohl noch Licht.

Nichts,

nichts ist verloren.

 

Ho-

sianna.

 

In der Eulenflucht, hier,

die Gespräche, taggrau,

der Grundwasserspuren.

 

*

 

                                                                (–– –– taggrau,

                                                                                         der

                                                                                                Grundwasserspuren ––

 

Verbracht

ins Gelände

mit

der untrüglichen

Spur:

 

Gras.

Gras,

auseinandergeschrieben.)

 

ĐOẠN CUỐI CỦA TẨU KHÚC

 

Bị di dời vào

trong vùng đất

với dấu vết không thể nhầm lẫn

 

cỏ, chữ viết rời rạc. Những tảng đá, màu trắng,

với bóng của những cọng cỏ:

Đừng đọc – hăy nh́n!

Đừng nh́n – hăy đi!

 

Đi, thời khắc của ngươi

không có chị em, ngươi –

ngươi ở nhà ngươi. Một cái bánh xe, chậm răi

xoay quanh chính nó, những nan

bám trèo

bám trèo trên cánh đồng đen thẫm, đêm

không cần có sao, không nơi đâu

người ta âu lo về ngươi.

 

*

 

                                                                Không đâu

                                                                                   có sự âu lo về ngươi – 

 

 

Nơi họ đă được ngủ, có

một cái tên – không có ǵ ở đó

không. Họ đă không được ngủ ở đó. Nhưng có một cái ǵ đó

thiếp lặng giữa họ. Họ

không ngó qua.

 

Không nh́n, không,

nói

những lời. Không ai trong bọn họ

trở dậy, giấc

ngủ

đến trên họ.

 

*

 

                                                                Đă đến, đến. Không đâu

                                                                                                          người ta âu lo –

 

Chính tôi, tôi,

tôi kẻ nằm ngủ giữa quí vị, tôi đă

rộng mở, người ta có thể

nghe tôi nói, tôi ra dấu để nói với quí vị, hơi thở quí vị

tuân phục, và tôi luôn luôn

vẫn chính là tôi, đúng là quí vị

ngủ.

 

*

 

Những năm.

Những năm, những năm, một ngón tay

lần ṃ, lên cao, xuống thấp, lần ṃ

quanh suốt:

những đường khâu vết thương, cảm thấy được, ở đây

mở toang hoác, ở đây

đă khép miệng – ai

đă che đậy nó lại?

 

                                                                                Đă che dậy nó lại

                                                                                                                – ai?

 

Đă tới, đă tới

Đă tới một lời, đă tới,

đă tới qua đêm tối

muốn tỏa sáng, muốn tỏa sáng.

 

Tro.

Tro, tro.

Đêm tối.

Đêm tối-và-đêm tối. – Đi

tới con mắt, tới con mắt đẫm lệ.

                            *

                                                                                                                Tới

                                                                                                                      con mắt đi,

                                                                                                                                         tới con mắt đẫm lệ. –

                               

                                Băo táp.

                                Băo táp, từ bao lâu

                                những trận băo hạt, cái c̣n lại

                                ngươi

                                tôi biết, chúng tôi đă

                                đọc trong một quyển sách, là

                                ư kiến.

 

                                Đă là, đă là

                                ư kiến. Làm thế nào

                                chúng ta nắm bắt

         nắm bắt bằng

                                những

                                bàn tay này?

 

 

                                Cũng đă được ghi rằng.

                                Ở đâu? Chúng ta

                                đă đặt lên trên đó một sự im lặng,

                                mênh mông lặng ở giữa, được tẩm độc, lớn

                                một

                                sự im lặng

                                màu lá mạ, một đài hoa, ở đó

                                có gắn một ư tưởng thảo mộc –

                                xanh rêu, vâng

                                có gắn, vâng

                                dưới bầu trời, vâng

                                xấu.

 

                                Được gắn, vâng

                                như thực vật

 

                                Vâng

                                Băo táp, hỗn mang, cuộn-

                                xoáy những hạt, vẫn là

                                thời gian, vẫn t́m

                                bên đá – đá

                                vẫn ân cần, đá

                                không cắt ngang lời.

                                cơ may chúng ta đă có:

 

                                nổi hạt,

                                nổi hạt và có xơ. Trơ cuống,

                                đầy đặn;

                                bó lọn và sáng rỡ; nổi cục,

                                nhẵn lỳ và

                                bón cục; hổng lỗ, chia-

                                nhánh – nó, cái đó

                                đă không cắt ngang lời, cái đó

                                nói,

                                cái đó tự nguyện nói với những con mắt khô khốc trước khi khép chúng lại.

 

                                Nói, nói.

                                Đă là, đă là.

 

                                Chúng ta

                                không buông bỏ, chúng ta ở lại

                                bên trong, một và cùng

                                cái kiến trúc hổng lỗ, rồi

                                nó đă tới.

 

                                Đă tới chúng ta, đă tới

                                xuyên qua, đă vá lại

                                một cách vô h́nh, đă vá

                                trên màng cuối cùng,

                                và

                                thế giới, pha lê ngh́n mặt,

                                đă tan nhanh, tan nhanh.

 

                                *

 

                                Những đêm, bị tháo rời. Những ṿng tṛn,

                                màu lá mạ hay xanh, vuông vức

                                màu đỏ: thế-

                                giới trong tṛ

                                đùa với những thời khắc mới

                                đặt ḿnh thân thiết. – Những ṿng tṛn,

                                đỏ hay đen, vuông vức

                                sáng rơ, không có

                                bóng tối bay ngang,

                                không

                                họa đồ định vị,  không

                                có linh hồn bốc cháy dâng cao không nhập cuộc chơi.

 

                                *

 

                                                                                                                Dâng cao và

                                                                                                                                   nhập cuộc chơi  –

 

                               

                                Trong đường bay chim cú, trên

                                cùi hủi hóa thạch,

                                trên

                                những bàn tay chúng ta vùi sâu, trong

                                phế bỏ cuối cùng,

phía trên

áo giáp, trước

bức tường đổ nát:

 

rơ rệt, lại

thấy: những

rănh, những

dàn đồng ca, trước đây, những

bài thánh ca. Ho, ho-

sianna.

 

Vậy mà vẫn,

có những giáo đường đứng thẳng. Một

ngôi sao

vẫn c̣n ánh chiếu.

Không ǵ

không ǵ mất đi.

 

Ho-

sianna.

 

Trong đường bay chim cú, nơi đây

những đối thoại, ngày-xám,

những dấu vết gịng nước ngầm.

 

*

 

                                                                (–– –– ngày-xám,

                                                                                                những

                                                                                                          dấu vết gịng nước ngầm.

 

Bị di dời vào

trong vùng đất

với những dấu vết

không-đánh-lừa:

 

Cỏ.

Cỏ,

chữ viết rời rạc.

 

 

Ghi chú của Jean-Pierre Lefebvre:

 

(1)     Verbracht: là một từ hành chính chỉ việc đặt văn pḥng ở một nơi nào đó, nhấn mạnh tới việc chỉ định nơi cư trú, trục xuất.

(2)     Auseinandergeschrieben: gợi ư sự can thiệp vào biểu đồ sao chép và tách rời những mẫu tự khác nhau. Nhưng cũng có những cách đọc khác cho rằng đó là văn tự, cách viết tạo ra sự tháo rời những h́nh ảnh. Trước khi làm bài thơ này mấy tháng Celan đă dịch (viết lại) bản văn của Jean Cayrol diễn giải phim Nuit et broullard/Đêm và sương mù của Alain Resnais như đă nói ở trên.

(3)     Lagen: hàm nghĩa das Lager là trại giam.

(4)     Ticken: chỉ việc tạo ra một tiếng động khô khan đều đặn chẳng hạn đồng hồ kêu tic-tac hay hành vi tạo ra tiếng động này.

(5)     Trích dẫn từ Démocrite.

(6)     Gestillt: hàm nghĩa được nuôi bằng sữa, giảm cơn đói, nhưng cũng có nghĩa sự im lặng “khách quan” đối nghịch với sự im lặng câm nín chủ quan theo nghĩa của từ Schweigen.

(7)     Auschiessen: động từ này gợi ư một chuyển động dồn dập và nhanh như ḍng xe chạy, ḍng nước cuốn v́ đôt nhiên được tháo. Cũng để chỉ sự h́nh thành nhanh chóng của pha lê.

(8)     Meßtisch: họa đồ địa h́nh để vẽ bản đồ. Chữ này cũng gợi ra việc bỏ bom nguyên tử xuống Hiroshima và những trại tiêu hủy con người hàm nghĩa những kỹ thuật vô nhân.

(9)     Die Eulenflucht: theo nghĩa đen là sự bỏ trốn và bay đi của cú (oiseaux de Minerve) vào lúc chạng vạng tối. Từ này cũng để chỉ cửa sổ trổ cho ánh sáng lọt vào của những kho chứa.

(10) Der Aussatz, der Aussätzige: chỉ cùi hủi là thứ bệnh người mắc bệnh phải bị cách ly. Ở đây từ này báo trước ư nghĩa có tính chất địa-luân-lư (geologic-moral) của từ Verwerfung.

 

(70) Peter Szondi, Celan Studies, bản Anh văncủa Susan Bernofsky và Harvey Mendelsohn, Stanford University Press 2003 trang 28: This is why we should stop wondering for the moment what is meant by the “unmistakable trace” and instead note that these first three lines do not tell us what it is, although the repeated use of the definitite article suggests that the reader does know what “terrain” and “trace” are being invoked. The opening of “Engführung,” then, is characterized less by the (potential) meaning of the expressions used in it than by the fact that the reader finds himself being at the same time drawn into a context he does not recognize and treated as though it were familiar to him; or, to be more precise, he is being treated like someone who has no right to know. From the very beginning, the reader has been deported – verbracht, “forcibly brought” – to a terrain that is both foreign and strange. Is this the “terrain with the unmistakable trace”? We do not know, do not yet know. But it has now been established that if these first few lines specify a referent, the reader cannot safely assume they do not refer to him. Here, too, then, we should stop asking ourselves to whom the phrase “Deported to the/terrain/with the unmistakable trace” refers and instead note that this information is being withheld, and that it is precisely this absence of information that lets the reader assume the phrase refers to him though not necessarily to him alone. And so the opening lines of “Engführung” give us to understand that while it is not true that the poet is addressing the reader directly (as the case in a great many poems), nor even that the words have anything to do with him, the reader finds himself transported to the interior of the text in such a way that it is no longer possible to distinguish between the one who is reading and what is being read. The reading subject coincides with the subject of reading.

   Trong bản Anh văn này ba câu thơ đầu bị rút gọn. Thật ra Peter Szondi dùng bản dịch Pháp văn của Jean Daive dịch ba câu này như sau: “Dé-/porté dans/l’étendue/à la trace sans faille; […] Herbe, écrite: déassemblée. Les pierres, blanches,/et l’ombre des tiges:…” Jean Daive là bạn thân của Celan nên khi dịch hẳn có tham khảo với chính Celan cho nên bản dịch rơ nghĩa hơn nguyên bản tiêng Đức. Quá khứ phân từ giống đực “déporté” giúp người đọc tránh được việc hiểu theo văn phạm tiếng Đức rằng chính Cỏ (Gras, auseinandergeschreiden) bị trục xuất tới Gelände mit der untrüglichen Spur. Tuy vây hai dịch giả sang Anh văn lại không ưa chuộng bản Pháp văn của Jean Daive bằng đọc nguyên bản tiếng Đức của Celan.

 

(71) Sđd, trang 30-31: We do not know, and this means quite precisely that it is not for us to know. What can be known, can be seen, is the textuality of the terrain. Once the grass has become letter, the white of the stones is also the white of the page – whiteness itself, interrupted only by the “grassblade” letters, or, rather, by the shadows they cast. This landscape-text is a fateful, funeral terrain. One might be tempted to say that the reader finds himself deported to a landscape dominated by death and shadow – the dead and their memory. But, once again, such interpretations are precluded by the textuality of a landscape that is not merely the subject of what we are reading – it is what we are reading. This is why the orders issued by the poet – to himself, the reader? no doubt to both – do not serve as an introduction, as they might in poetry of a certain sort. One can receive and follow these orders only once one has been “deported” to the text-terrain.

 

(72) Sđd, 31-32: Does this mean the text being read and the picture being looked at have to give way to the reality, permitting the spectator-reader to move forward, “go”? Yes and no. It isn’t the fiction of the textuality, of poetry, that is being abandoned in favor of reality. It isn’t the receptive passivity of the spectator-reader that is being forced to yield to so-called real action, engagement. On the contrary: The text itself is refusing to serve reality, to go on playing the role that has been assigned to it since Aristotle. Poetry is ceasing to be mimesis, representation; it is becoming reality. To be sure, this is the poetic reality: The text no longer stands in the service of a predetermined reality. Thus, we are no longer to “read” this text not to “look” at the picture it might be describing. What the poet is asking of both himself and the reader is to move forward, “go,” into this terrain that is his text.

 

(73) Sđd, trang 33: And in this night, this realm of death that would not exist as such if it were lit up with stars, “no one/asks after you.”

 

(74) Diễn giải này của Szondi dựa trên định nghĩa từ “strette” trong từ điển của Littré và trong từ điển của Robert : strette là “phần của một tẩu khúc trong đó chủ đề chỉ hiện ra trong những đoạn rời và giống như một đối thoại căng thẳng, khẩn cấp.”(Littré) hay phần trong đó “chủ đề và đối đáp đuổi bắt nhau, với những lối vào là những ngắt đoạn càng ngày càng ngắn” (Robert.)

 

                               

       (c̣n tiếp)

                               

     ĐÀO TRUNG ĐẠO

 

http://www.gio-o.com/DaoTrungDao.html

 

 

© gio-o.com 2016