đào trung đạo

thi sĩ / thi ca

(39)

 

                       Kỳ 1, Kỳ 2, Kỳ 3, Kỳ 4, Kỳ 5, Kỳ 6, Kỳ 7, Kỳ 8, Kỳ 9, Kỳ 10, Kỳ 11, Kỳ 12, Kỳ 13, Kỳ 14, Kỳ 15, Kỳ 16, Kỳ 17, Kỳ 18, Kỳ 19, Kỳ 20, Kỳ 21, Kỳ 22, Kỳ 23, Kỳ 24, Kỳ 25, Kỳ 26, Kỳ 27, Kỳ 28, Kỳ 29, Kỳ 30, Kỳ 31, Kỳ 32, Kỳ 33, Kỳ 34, Kỳ 35, Kỳ 36, Kỳ 37, Kỳ 38, Kỳ 39,

 

 

RENÉ CHAR

 

LES TROIS SŒURS

Mon amour à la robe de phare bleu,

Je baise la fièvre de ton visage

où couche la lumière qui jouit en secret.

 

J’aime et je sanglote. Je suis vivant

et c’est ton cœur cette Étoile du Matin

à la durée viclorieuse qui rougit avant

de romper le combat des Constellations.

 

Hors de toi, que ma chair devienne la voile

qui répugne au vent.

 

                   I

 

Dans l’urne des temps secondaires

L’enfant à naître était de craie.

La marche fourchue des saisons

Abritait d’herbe l’inconnu.

 

La connaissance divisible

Pressait d’averses le printemps

Un aromate de pays

Prolongeait la fleur apparue.

 

Communication qu’on outrage,

Ecorce ou givre deposés;

L’air investit, le sang attise

L’œil fait mystère du baiser.

 

Donnant vie à la route ouverte,

Le tourbillion vint aux genoux;

Et cet élan, le lit des larmes

S’en emplit d’un seul battement.

 

                   II

 

La seconde crie et s’évade

De l’abeille ambiante et du tilleul vermeil.

Elle est un jour de vent perpétual,

Le dé bleu du combat, le guetteur qui sourit

Quand sa lyre profère: “Ce que je veux, sera.”

 

C’est l’heure de se taire

De devenir la tour

Que l’avenir convoite.

 

La chasseur de soi fuit sa maison fragile;

Son gibier le suit n’ayant plus peur.

 

Leur clarté est si haute, leur santé si nouvelle,

Que ces deux qui s’en vont sans rien signifier

Ne sentent pas les sœurs les ramener à elles

D’un long baillon de cendre aux forêts blanches.

 

                   III

 

Cet enfant sur son épaule

Est ta chance et ton fardeau.

Terre en quoi l’orchidée brûle,

Ne le fatiguez pas de vous.

 

Restez fleur et frontière,

Restez manne et serpent;

Ce que la chimère accumule

Bientôt délaisse le refuge.

 

Meurent les yeux singuliers

Et la parole qui découvre.

La plaie qui rampe au miroir

Est maîtresse des deux bouges.

 

Violente l’épaule s’entrouvre;

Muet apparaît le volcan.

Terre sur quoi l’olivier brille,

Tout s’évanouit en passage.

 

BA CHỊ EM

 

T́nh yêu của tôi dành cho cái áo ngủ hải đăng xanh

tôi hôn hơi ấm trên mặt em

nơi ánh sáng ngủ vui thú một cách bí mật.

 

Tôi yêu và tôi nức nở. Tôi c̣n sống

và trái tim em là Ngôi Sao Mai này

kéo dài chiến thắng ửng hồn trước khi

chấm dứt cuộc chiến của Những Cḥm Sao.

 

Cách xa em, thịt da anh trở thành cánh buồm

chống trả gió.

 

                   I

 

Trong b́nh tro cốt của thời sau

Đứa trẻ được sinh ra là phấn.

Bước đi chia nhánh của mùa màng

Che chở kẻ vô danh bằng cỏ.

 

Tri thức có thể phân chia

Thúc bách mùa xuân bằng những trận mưa rào.

Một xứ sở ngát hương

Kéo dài bông hoa hiện ra.

 

Thông giao bị xúc phạm,

Vỏ cây hay sương đọng được sắp đặt;

Không khí tin cậy, máu khơi gấy

Mắt biến nụ hôn thành sự bí mật.

 

Cho con đường rộng mở đời sống,

Giông tố qú gối đi tới;

Và với đà này, cái giường nước mắt

Tràn trề trong một thoáng.

 

Giây gào thét và trốn chạy

Ong vây quanh và cây đoạn đỏ thắm.

Nàng là một ngày của gió không ngừng,

Con súc sắc màu xanh của cuộc chiến, kẻ canh chừng cười mỉm

Khi cây đàn lyre của nàng cất tiếng: “Cái tôi muốn, sẽ là.”

 

Đă đến lúc nín thinh

Để trở thành ṭa tháp

Mà tương lai thèm khát.

 

Kẻ săn đuổi bản ngă chạy trốn căn nhà dễ sụp đổ của hắn;

Con mồi theo chân hắn không c̣n sợ hăi.

 

Ánh tỏa sáng của chúng thật cao, sức khỏe của chúng thật mới,

Hai kẻ này dù cho có bỏ đi cũng chẳng có ư nghĩa ǵ

Đừng cảm thấy ba chị em đem chúng trở lại với họ

Với một giải khăn bịt miệng dài tới khu rừng trắng.

 

                               III

 

Đứa trẻ trên vai ngươi

Là cơ may và gánh nặng của ngươi.

Trái đất nơi hoa lan bốc cháy,

Đừng làm nó mệt mỏi với ngươi.

 

Hăy cứ là hoa và biên giới,

Hăy cứ là của trời cho và rắn;

Cái ảo ảnh tích lũy

Chẳng bao lâu bỏ nơi ẩn trốn.

 

Những con mắt lạ có thể nào chết đi

Và lời khám phá.

Vết thương nép ḿnh vào gương

Là người t́nh của hai căn pḥng nhỏ.

 

Mạnh mẽ vai giang rộng;

Câm nín núi lửa hiện h́nh.

Trái đất trên đó cây ô liu tỏa sáng,

Tất cả biến mất khi ngang qua.

       René Char ghi chú về bài thơ này: “Đứa trẻ bị quỉ ám của Ba Chị Em [họ] quá nghiêm trọng, được dựng lên dần dần từ sự tăng trưởng của nó chống lại luật tắc qui phục nó dồn ép chung quanh nó. Tôi là (je suis), các cô ấy là. Tôi trở thành (Je suis devenu), c̣n các cô ấy, không [trở thành]. Ba chị em Parques thổi trên những ngón tay của con người mà các cô ấy đă muốn cứ măi là đứa trẻ con. Thật thế.

                  

                   Terre sur quoi l’olivier brille/Trái đất trên đó cây o liu tỏa sáng

                   Tout s’évanouit en passage…/Tất cả biến mất khi ngang qua…

 

       Cái ch́a khóa măi là thủy ngân (vif-argent).

                                                                   (Œuvres complète trang 1292)

 

       Bài thơ Les trois sœurs của René Char tuy bí hiểm nhưng lại rất được ngưỡng mộ. Theo Paul Veyne trong René Char en ses poèmes Char đặc biệt ưa thích và coi bài thơ này hơn hẳn những bài thơ khác của ḿnh. Tựa đề Les trois sœurs chỉ ba chị em Parques trong huyền thoại cổ La Hy: Nona, Decima, và Morta là những thần linh của sinh mệnh. Trong bài thơ cả ba chị em mỗi người lần lượt theo cách riêng của ḿnh muốn chấm dứt đời sống của một đứa trẻ sắp trưởng thành. Khổ đầu bài thơ tác giả đề tặng Cái Đẹp và cũng là đề tặng Yvonne Zèrvos (bạn thân của Char, người thường tổ chức các cuộc triển lăm tranh cho Braque). Bài thơ này Char không viết về tuổi thơ của ḿnh, không phải là một câu truyện nhưng chủ đề là ba sinh phần khả hữu của bài thơ đang được thai nghén: hoài thai, không thể ra đời, và tự hủy một cách oanh liệt trong sự ra đời của nó, nghĩa là ba lịch sử của bài thơ chứ không phải của thi sĩ.

       Bài Les trois sœurs cần được đọc cùng với hai bài thơ khác của Char là bài Le Thor và bài Jacquemard et Julia.

 

LE THOR:

 

       Dans le sentier aux herbes engourdies où nous nous étonnions, enfants, que la nuit se risquât à passer, les guêpes n’allaient plus aux ronces et les oiseaux aux branches. L’air ouvrait aux hôtes de la matinée sa turbulente immensité. Ce n’étaient que filaments d’ailes, tentation de crier, voltige entre lumière et transparence. Le Thor s’exaltait sur la lyre de ses pierres. Le Mont Ventoux, miroire des aigles, était en vue.

       Dans le sentier aux herbes engourdies, la chimère d’un age perdu souriait à nos jeunes larmes.

 

        Tỉnh nhỏ Le Thor [nằm bên bờ sông Sorgue, trung tâm rặng Vaucluse]

 

       Trong con đường cỏ tê cóng nơi chúng tôi, những đứa trẻ, ngạc nhiên thấy đêm tối liều lĩnh đi qua, ong bắp cầy không c̣n đi tới những bụi gai và chim tới cành. Không khí mở sự mênh mông náo động ra cho khách ban mai. Chỉ có những sợi cánh chim, sự quyến rũ cất lên tiếng kêu, nhào lộn giữa ánh sáng và trong suốt. Le Thor khát khao trên cây đàn lyre bằng đá của nó. Dăy Ventoux, tấm gương của những cánh chim, trong tầm mắt.

        Trong con đường cỏ tê cóng, ảo ảnh của một thời đă mất mỉm cười với những giọt lệ thanh xuân của chúng tôi.

 

Bài JACQUEMARD ET JULIA:

 

       Jadis l’herbe, à l’heure où les routes de la terre s’accordaient dans leur déclin, élevait tendrement ses tiges et allumait ses clarés. Les cavaliers du jour au regard de leur amour et les châteaux de leur bien-aimées comptaient autant de fenêtres que l’abîme porte d’orages legers.

       Jadis l’herbe connaissait mille devises qui ne se contrariaient pas. Elle était la providence des visages baignés de larmes.  Elle incantait les animaux, donnait asile à l’erreur. Son étendue était comparable au ciel qui a vaincu la peur du temps et allégi la douleur.

       Jadis l’herbe était bonne aux fous et hostile at bourreau. Elle convolait avec le seuil de toujours. Les jeux qu’elle inventait avaient des ailes à leur sourire (jeux absous et également fugitifs). Elle n’était dure pour aucun de ceux qui perdant leur chemin souhaitaient le perdre à jamais.

       Jadis l’herbe avait établi que la nuit vaut moins que son pouvoir, que les sources ne compliquent pas à plaisir leur parcours, que la graine qui s’age nouille est déjà à demi dans le bec de l’oiseau. Jadis, terre et ciel se haïssaient mais terre et ciel vivaient.

       L’inextinguible sécheresse s’écoule. L’homme est un étranger pour l’aurore. Cependant à la poursuite de la vie qui ne peut être encore imaginée, il y a des volontés qui frémissent, des murmures qui vont s’affronter et des enfants sains et saufs qui découvrent.

 

JACQUEMARD và JULIA*

 

       Ngày xưa, vào giờ khi những con đường của trái đất ḥa đồng với nhau trong sự suy sụp của chúng, cỏ vươn cọng của chúng lên một cách dịu dàng và bật ánh sáng của chúng lên. Những kỵ mă thời đó được sinh ra trong thương yêu và những ṭa lâu đài của những người thân yêu của họ có nhiều cửa sổ ngang với số những cơn băo nhẹ vực thẳm mang vác.

       Ngày xưa cỏ biết hàng ngàn phương cách không trái nghịch nhau. Nó là mệnh trời của những khuôn mặt tắm lệ. Nó ngợi ca súc vật, cho kẻ lạc đường nơi cư trú. Sự trải rộng của cỏ có thể sánh ngang bầu trời đă chiến thắng sự sợ hăi thời gian và làm giảm đi sự đớn đau.

       Ngày xưa cỏ đối xử tốt với kẻ điên và không thân thiện với đồ tể. Nó kết hôn với ngưỡng của thường hằng. Những tṛ chơi nó tạo ra có cánh đính vào nụ cười của chúng (những tṛ chơi được miễn thứ và cũng biến ảo). Cỏ không khó khăn với bất kỳ một kẻ nào lạc đường từ nay trở đi không muốn lạc đường nữa.

       Ngày xưa cỏ đă thiết định rằng đêm tối không đáng giá bằng sức mạnh của nó, rằng những con suối không tùy thích làm gịng chảy của chúng phức tạp, rằng hạt già cỗi nửa phần đă trong mỏ chim. Ngày xưa trái đất và bầu trời ghét bỏ nhau nhưng trái đất và bầu trời vẫn tồn tại.

       Hạn hán bất tận qua đi. Con người là một kẻ xa lạ với b́nh minh. Tuy nhiên trong việc theo đuổi đời sống không c̣n tưởng tượng ra được nữa đó, vẫn c̣n có những kẻ có ư chí run rẩy, những nụ cười mỉm họp nhau lại và những đứa trẻ an lành khám phá.

 

*Jacquemard là tên cha và Julia là tên người chị mẹ của René Char mà cha ông đă cưới làm vợ khi Julia mới 20 tuổi nhưng bà đă chết bịnh một năm sau ngày cưới. René Char nói về bài thơ này: “Cha tôi yêu bà với t́nh yêu của một t́nh nhân trẻ tuổi và đă có một nỗi buồn khổ rất lớn. Bài thơ này viết để dâng tặng ánh hào quang của ngọn lửa sớm tắt của họ. Tuy làm vậy, nhưng bài thơ, theo tôi nghĩ, không đưa vào ư hướng bất kính nào đối với mẹ tôi kẻ luôn luôn tỏ ra rất tốt với tôi, dù đôi khi vụng về (Œuvres complètes trang 1295.) [Mẹ của René Char là em gái của Julia.]

       Trong những phần sau tôi sẽ giải thích tại sao cần phải đọc Les trois sœurs cùng với Le ThorJacquemard et Julia và có thể cả với Déclarer son nom nữa.

 

  (c̣n tiếp)

 

       đào trung đạo

 

 

                   http://www.gio-o.com/DaoTrungDao.html

 

 

© gio-o.com 2016