đào trung đạo
thi sĩ / thi ca
(36)
Kỳ 1, Kỳ 2, Kỳ 3, Kỳ 4, Kỳ 5, Kỳ 6, Kỳ 7, Kỳ 8, Kỳ 9, Kỳ 10, Kỳ 11, Kỳ 12, Kỳ 13, Kỳ 14, Kỳ 15, Kỳ 16, Kỳ 17, Kỳ 18, Kỳ 19, Kỳ 20, Kỳ 21, Kỳ 22, Kỳ 23, Kỳ 24, Kỳ 25, Kỳ 26, Kỳ 27, Kỳ 28, Kỳ 29, Kỳ 30, Kỳ 31, Kỳ 32, Kỳ 33, Kỳ 34, Kỳ 35, Kỳ 36,
RENÉ CHAR
Bảy bài thơ Heidegger viết tặng Char có thể đọc như bài trình bày những nét chính của thi ca René Char đồng thời cũng là của triết lý Heidegger.
Vì thơ của René Char khó vậy phải đọc thơ René Char như thế nào? Xin dẫn một vài thí dụ về “đọc Char”:
1. Eric Marty đọc Char với ý hướng truy vấn về thuyết bí hiểm/ẩn (hemétisme). Marty viết: “René Char, cũng như Paul Celan (người đã dịch thơ Char sang Đức văn), hay Mandelstam (Char, với sự giúp đỡ của Tina Jolas, đã dịch từ tiếng Nga), là một thi sĩ khó: cũng như những thi sĩ nêu trên ông ta thuộc về một thế hệ mà hai đoạn lìa lớn lao của thế kỷ XX (chủ nghĩa quốc xã và chủ nghĩa cộng sản Sô viết) đã cắt lìa. Thế nhưng, Char đã sống sót sau cuộc chiến đấu vũ trang ông ta đã dẫn dắt chống lại bọn quốc xã, và ông ta không phải là, theo câu nói vẫn được nhắc đi nhắc lại, thi sĩ “kể từ sau Auschwitz không còn thể làm thơ nữa”…Thực ra như chính Char tuyên bố trong bài À une sérénité crispée “Ám ảnh về gặt hái và về sự lãnh đạm với lịch sử là hai đầu của cái cánh cung của tôi,” dù rằng trong cuộc chiến du kích Char từng ngày đối diện với hiểm nguy, với cái chết nhưng sau khi chiến tranh chấm dứt Char đã nhất quyết “xóa bỏ những dấu tích và bít kín mê cung” (d’effacer les traces et de murer le labyrinth) và quyết định này rút khỏi lịch sử này không phải là quên lãng, không chỉ có giá trị chính trị nhưng đúng ra là một quyết định thi ca. Sự bí hiểm của Char không do nơi lịch sử chính trị mà do nơi lịch sử văn chương. Thế nhưng, để giải thích được sự bí hiểm của thơ René Char trước hết phải đọc Char. Marty viết: “Cũng vậy, để hiểu bài thơ của Char, việc dựa vào một hệ thống khái niệm có sẵn là không đủ mà phải đọc ông ta. Từ sự kiện này, đôi khi chúng tôi đi tới việc trích dẫn toàn thể một bài thơ và bình giải bài thơ này một cách tận lực…”[9] Điểm đáng lưu ý trong cách đọc của Marty không mấy khi sử dụng những thông tin tiếu sử.
2. Mary Ann Caws đọc Char bằng tiêu cự kép (double focus): tập trung sự chú ý trên bản văn giấy trắng mực đen và cách thế cảm nhận bản văn một cách tương thích. Tính chất mơ hồ không rõ ràng về mặt ngữ âm (phonetic ambiguity) của những thành tố đôi khi thấy trong thơ René Char được dùng làm cơ sở cho một sự bóp méo tạm thời nội dung chỉ nghĩa của chúng và cách này được coi như một thử nghiệm trong một viễn tượng có thể được gọi là một sự ám ảnh cố tình và việc diễn giải chệch hướng sau đó sẽ được biện minh bởi vị trí chủ yếu của sự mơ hồ bằng lý thuyết vế sự bóp méo thực nghiệm có giá trị của nó trong việc di chuyển tuần tự tri nhận và biểu lộ từ ngoài và sau đó hướng về cái chủ quan và cái được gợi ý. Mary Ann Caws tuy quan tâm tới thi cảnh rộng lớn hơn nhưng cũng tìm ra ngả đi từ ngoài vào những bài thơ để phục hồi những thành tố và những dạng thức của toàn thể cấu trúc bài thơ, những hình ảnh được đặt vào vị trí của chúng trong những chủ đề thi sĩ nêu ra, và những chủ đề này cũng được đặt vào trong một chuỗi kết hợp của những mùa màng và của nhãn quan. Sau cùng, theo Mary Ann Caws, với nỗ lực theo chiều tung (thẳng đứng) bằng nhau của thi sĩ và của người đọc thì sự chuyển dịch được hoàn thành từ Lời nơi quần đảo – chữ của Char – của những đoạn rời đi vào một tụ hội của tinh thần. [10] Mary Ann Caws dùng phương pháp cấu trúc hay ấn tượng (impressionistic) để tiếp cận thơ René Char và việc đọc Char tuy chốc chốc lại thay đổi hướng nhưng vẫn kiên trì trung thực với toàn thể tác phẩm qua việc đắm mình lâu dài trong những bản văn đã được xuất bản cũng như những bản thảo chưa được xuất bản và những cuộc đàm đạo và trao đổi thư tín với Char. Mary Ann Caws chọn con đường quan sát và lên tiếng từ bên trong vũ trụ thơ của Char. Với câu hỏi của chính Char tự đặt ra cho mình “tại sao con đường này mà không là con đường khác” Mary Ann Caws cho rằng chỉ thể có câu trả lời theo trực giác vì trực giác là yếu tính của thi ca. “Con đường này, trong những cách thế khác biệt của nó, dường như là ít giảm thiểu nhất. Thay vì thương lượng với những hoàn cảnh bên ngoài và niên đại tiểu sử, ở đây chúng tôi đã chọn việc tự giới hạn vào tác phẩm như đã được đưa ra và, nhất là, vào những diễn giải những bản văn trong liên quan khả dĩ của chúng dựa trên một lý thuyết về đọc. Con đường này bắt đầu từ đoạn rời và rồi mở rộng ra.”[11] Vì mục tiêu chính của Mary Ann Caws là trình bày bản chất thi ca của Char nên đã chọn thái độ tham dự thay vì giảng giải.
3. James R. Lawler khởi từ đề từ hai câu thơ của Char “J’ai, captive, épousé le ralenti du lierre à l’assaut de la pierre de l’éternité” (Tôi, bị giam cầm, đã mai mối chuyển động chầm chậm của cây thường xuân với sự tấn công của tảng đá vĩnh cửu) đã chọn cách đọc, vừa tiếp cận “chếch/xéo” gián tiếp vừa trực tiếp nhưng điểm nhấn vẫn là cách đọc bám sát bản văn (close reading) – tuy cách đọc này ngày nay không còn được giới tiền phong ưu đãi – nhưng nó cho phép, hơn bất kỳ lối đọc nào khác, đi được vào bề dầy ngữ nghĩa, thực chất của bài thơ.[12]
4. Nancy Kline Piore nỗ lực giúp người đọc Char hiểu được vũ trụ thi ca bí ẩn của Char và khám phá xem thi sĩ cho phép người đọc thấy được những chủ đề, hình ảnh, những nhân tố chính trong thi ca, thái độ chính trị cũng như thi pháp của Char “bằng ngả tiếp cận không theo niên đại mà đúng ra là qua hình tượng.”[13]
Những cách đọc René Char của Ann Mary Caws, Nancy Kline Piore, và Eric Marty cho thấy ảnh hưởng cách đọc bản văn của Jacques Derrida khi coi những thông tin ngoài bản văn là “phụ đính nguy hiểm” (supplément dangereux).
5. Patrick Née trong René Char, une poétique du retour [quyển sách được xuất bản năm 2007 đúng vào dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của René Char] “đọc” Char để suy tưởng (réfléchir) về thi ca của Char và đưa ra chứng lý hiển nhiên cho thấy Char “đối thoại” với Héraclite, Nietszche, và Heidegger. Chủ đích của Patrick Née là chỉ ra không phải Char “chịu ảnh hưởng” về tư tưởng ba triết gia nói trên mà thực ra có những trùng hợp, giao thoa, và “chung huyết thống/cùng một nòi” (parenté) giữa Char với Héraclite, Nietszche và Heidegger.[14]
MỘT SỐ BÀI THƠ CỦA RENÉ CHAR
DÉCLARER SON NOM
J’avais dix ans. La Sorgue m’enchâssait. Le soleil chantait les heures sur le sage cadran eaux. L’insouciance et la douleur avaient scellé le coq de fer sur le toit des maisons et se supportaient ensemble. Mais quelle roue dans le cœur de l’enfant aux aguets tournait plus fort, tournait plus vite que celle du moulin dans son incendie blanc?
(Trong tập La parole en archipel, Œuvres completes trang 401.)
TUYÊN BỐ TÊN MÌNH
Tôi mười tuổi. Con sông Sorgue vây lấy tôi. Mặt trời ca hát những giờ trên cái mặt chỉ giờ khôn ngoan của nước. Sự vô tư và đớn đau đã gắn chặt con gà bằng sắt trên mái những căn nhà và sự vô tư và khổ đau cưu mang nhau. Thế nhưng cái vòng quay nào trong trái tim đứa bé đang ngó nhìn quay mạnh hơn, nhanh hơn cái vòng quay của cái cối xay trong đám cháy trắng?
ÉVADNÉ
L’été et notre vie étions d’un seul tenant
La campagne mangeait la couleur de ta jupe odorante
Avidité et contrainte s’étaient reconciliées
Le château de Maubec s’enfonçait dans l’argile
Bientôt s’effondrerait le roulis de sa lyre
La violence des plantes nous faisait vaciller
Un corbeau rameur somber deviant de l’escadre
Sur le muet silex de midi écartelé
Accompagnait notre entente aux mouvements tendres
La faucille partout devait se reposer
Notre rareté commençait un règne
(Le vent insomnieux qui nous ride la paupière
En tournant chaque nuit la page consentie
Veut que chaque part de toi que je retienne
Soit étendue à un pays d’âge affamé et de larmier géant)
C’était au début d’adorables années
La terre nous aimait un peu je me souviens
(Trong tập Seuls demeurent, Œuvres complètes trang 153.)
ÉVADNÉ
Mùa hạ và cuộc đời chúng ta cùng một
Vùng quê ăn mất màu chiếc váy thơm hương của em
Nỗi khát khao và sự bức bách đã thỏa hiệp
Lâu đài Maubec lẩn mình trong đất sét
Chẳng bao lâu nữa cây đàn lyre của tòa lân đài này sẽ đổ xuống
Sự hung bạo của cây cối làm chúng ta ngả nghiêng
Một con quạ bám cành tối tăm lìa đàn
Trên đá lửa câm nín của buổi trưa bị chia cắt
Đồng hành với sự thuận tình của chúng ta bằng những chuyển động dịu dàng
Khắp chốn liềm hẳn đã phải ngưng
Sự hiếm có của chúng ta bắt đầu lên ngôi
(Gió không ngủ lướt qua mi mắt
Khi lật trang sách đồng lòng mỗi đêm
Mong sao mỗi phần của em anh còn giữ lại
Trải rộng tới một xứ sở của thời đói kém và của rãnh lệ khổng lồ)
Đó là khởi đầu những năm đáng yêu
Anh nhớ rằng trái đất cũng có yêu mến chúng ta.
[Từ “Evadne” theo thần thoại Hy Lạp để chỉ nàng Capaneous nhảy vào lò hỏa táng tự thiêu cùng chồng. Trong một thần thoại khác từ này cũng để chỉ con gái của Pelias quân vương thành Iolcus. Sau đó từ này được dùng như tên chung của phụ nữ] Đây là một bài thơ tình khá đẹp nhưng rất riêng tư của Char. Theo giải thích của Paul Veyre [15] bài này nói về những cuộc dạo chơi của Char với người tình là nữ họa sĩ Greta Knutson gốc Scandinavia trong vùng đồi Luberon. Đường đi trong vùng đồi này cây cối rậm rạp chắn lối nên người đi bộ phải tách vạch những cành cây đan kết chi chít để băng qua. Chi tiết này giúp người đọc hiểu rõ hơn câu thơ “Sự hung bạo của cây cối làm chúng ta ngả nghiêng chao liệng”. Trong bài thơ Char viết là Lâu đài Maubec nhưng thật ra đó là lâu đài Oppède hoang tàn, bầu trời trên khu này được Char mô tả là sắc vàng như đá lửa [từ “đá lửa” trong câu thơ “Trên đá lửa câm nín của buổi trưa bị chia cắt “] song ở bài thơ khác trong loạt thơ viết tặng Greta Knutson mặt trời lại được Char tả là màu xanh. Cảnh sát vùng này còn lưu hồ sơ ghi chép vào năm 1939 về mối liên hệ của Char với Greta vì tình nghi Char có dính líu tới hoạt động chính trị bí mật.
ARGUMENT
Comment vivre sans inconnu devant soi?
Les hommes d’aujourd’hui veulent que le poème soit à l’image de leur vie, faite
de si peu d’égards, de si peu d’espace et brûlée d’intolérance.
Parce qu’il ne leur est plus loisible d’agir suprêmement, dans cette
préoccupation fatale de se détruire par son semblable, parce que leur inerte
richesse les freine et les enchaîne, les hommes d’aujourd’hui, l’instinct affaibli,
perdent, tout en se gardant vivants, jusqu’à la poussière de leur nom.
Né de l’appel du devenir et de l’angoisse de la rétention, le poème, s’élevant de
son puits de boue et d’étoiles, témoignera presque silencieusement, qu’il
n’était rien en lui qui n’existât vraiment ailleurs, dans ce rebelle et solitaire
monde des contradictions.
(Trong tập Le poème pulverisé, Œuvres complètes trang 247)
TRANH BIỆN
Làm sao có thể sống mà không có cái không biết phía trước?
Con người hôm nay muốn bài thơ phải giống như hình ảnh đời sống của họ, được làm ra với tối thiểu cẩn trọng, với tối thiểu không gian và bị sự bất dung thiêu rụi.
Bởi hành động một cách tối thượng không còn là hẳn nhiên, trong sự lo ngại
không tránh khỏi của việc bị hủy diệt bởi đồng loại này, bởi sự giàu có trơ lì níu họ lại và xích xiềng họ, con người hôm nay, bản năng đã yếu kém, họ đánh mất,
tuy vẫn giữ cho mình còn sống, ngay cả tro bụi của cái tên của họ.
Sinh ra từ lời kêu gọi của trở thành và từ nỗi chán chường của sự trì níu, bài
thơ, dâng lên từ cái giếng bùn và sao trời của nó, sẽ làm chứng, hầu như một
cách lặng lẽ, rằng chẳng có cái gì trong nó lại không thực sự hiện hữu đâu đó, trong cái thế giới nổi loạn và cô đơn của những mâu thuẫn.
J’HABITE UNE DOULEUR
Ne laisse pas le soin de gouverner ton cœur à ces tendresses parentes de l’automme auquel elles empruntent sa placid allure et son affable agonie. L’œil est précoce à se plisser. La souffrance connaît peu de mots. Préfère te coucher sans fardeau: tu rêveras du lendemain et ton lit te sera léger. Tu rêveras que ta maison n’a plus de vitres. Tu es impatient de t’unir au vent, au vent qui parcourt une année en une nuit. D’autres chanteront l’incorporation mélodieuse, les chairs qui ne personifient plus que la sorcellerie du sablier. Tu condamneras la gratitude qui se répète. Plus tard, on t’identifiera à quelque géant désagrégé, seigneur de l’impossible.
Pourtant.
Tu n’as fait qu’augmenter le poids de ta nuit. Tu est retourné à la pêche aux murailles, à la canicule sans été. Tu es furieux contre ton amour au centre d’une entente qui s’affole. Songe à la maison parfait que tu ne verras jamais monter. A quand la récolte de l’abîme? Mais tu as crevé les yeux du lion. Tu crois voir passer la beauté au-dessus de lavandes noires…
Qu’est-ce qui t’a hissé, une fois encore, un peu plus haut, sans te convaincre?
Il n’y a pas de siège pur.
(Trong tập Le Poème pulvérisé, Œuvres complètes trang 255)
NIỀM ĐAU TÔI CƯ NGỤ
Đừng để nhiệm vụ cai quản trái tim ngươi cho những dịu dàng họ hàng với mùa thu đó, chúng vay mượn dáng vẻ trầm lắng và cơn hấp hối ân cần của mùa thu. Mắt sớm khép lại. Khổ đau chẳng có nhiều lời. Ngươi ưng đi ngủ không gánh nặng: ngươi sẽ mơ về ngày mai và cái giường của ngươi sẽ nhẹ nhàng đối với ngươi. Ngươi sẽ mơ rằng căn nhà của ngươi không còn có cửa kính. Ngươi nóng lòng đi theo gió, ngọn gió thổi suốt một năm chỉ trong một đêm. Những kẻ khác sẽ ca hát sự nhập thể nhịp nhàng, thịt da chỉ nhân hóa khác nào phù thủy đồng hồ. Ngươi sẽ lên án sự biết ơn lập lại hoài hủy. Lâu sau, người ta sẽ đồng nhất ngươi với tên khổng lồ rợi rã nào đó, quân vương của cái bất khả.
Tuy nhiên.
Ngươi đã chỉ làm tăng thêm trọng lượng đêm của ngưoi. Ngươi đã quay trở lại những bức tường cao để câu, quay trở lại thời gian oi nồng không có mùa hè. Ngươi nổi điên chống lại tình yêu của ngươi ngay trung tâm của một sự thấu hiểu ngột ngạt. Hãy mơ về căn nhà hoàn hảo mà ngươi sẽ chẳng bao giờ thấy được dựng lên. Bao giờ sẽ có mùa gặt hái của vực thẳm? Nhưng ngươi đã khóet mắt con sư tử. Ngươi nghĩ rằng mình nhìn thấy cái đẹp lướt qua trên nước cải hương đen…
Cái gì đã nâng ngươi lên cao, thêm một lần nữa, cao hơn một chút, mà không thuyết phục ngươi?
Chẳng có cái ghế nào không dấu vết.
René Char viết về bài tơ này: “Tôi nghĩ đó là một trong những bài thơ “hoàn chỉnh” nhất của tôi; thực phẩm/chất liệu tạo nên bài thơ này sẽ không hư hoại, sẽ chỉ đụng tới cái lõi của không khí “được bao bọc” một cách hoàn toàn. Trong khoảnh khắc đó tôi chĩu nặng nghìn năm thi ca và sự bức bối trước đó. Tôi phải biểu lộ nó ra. Tôi ôm đầu mình như người ta nắm một tảng muối và tôi thật sự đã xả tung nó ra…Từ cái ảo tưởng không thể chịu đựng này bài J’habite une douleur đã được sinh ra, cộng thêm chút nguôi ngoa nào đó.[16]
______________________________________________
[9] Eric Marty, René Char trang 11-12: Il s’agit donc ici de lire et de présenter la poésie de Char. Depuis le premier poème commenté, Déclarer son nom, jusqu’au dernier, Madeleine à la veilleuse, ce livre se donne, de bout en bout, comme une interrogation sur son hermétisme. René Char, comme Paul Célan (qui l’a traduit en allemand), ou Mandelstam (que Char, aidé de Tina Jolas, a traduit du russe), est un poète difficile: il appartient comme eux à une génération que les deux grandes fractures du XXe siècle (le nazisme et le communism soviétique) ont mutilé. Cependant, Char a survécu à la lutte armée qu’il a mené contre les nazis, et il n’est pas, selon la formule consacrée, le poète “de l’impossibilité du poème depuis Auchschwitz”… Aussi, pour comprendre le poème de René Char, ne suffit-il pas d’en faire le pion d’un système conceptuel donné d’avance; il faut le lire. De ce fait, il nous est parfois arrivé de citer un poème dans son intégralité et de le commenter assidûment…
[10] Mary Ann Caws, The Presence of René Char trang 3: The phonetic ambiguity of a few recurring elements is then made the basis for a temporary distortion of their semantic content, as an experiment in one perspective which might even be called a deliberate obsession, this deviant interpretation justified by the crucial position of the ambiguous within the theory: the experimental distortion proves its value in the progressive shifting of perception and of expression from the outward and the stated toward the subjective and the suggested. The major part of the essay, concerned with a broader context, nevertheless finds an inward path, where the elements and figures are restored to an overall structure, individual images situated within developing themes, and these themes, within an inclusive cycle of seasons and of vision. Finally, by a vertical effort equally of the poet and the reader, the transition is accomplished from the archipelago of verbal fragments – La Parole en archipel – into an constellation of the mind.
[11] Sđd trang 4: This path, in its divergent ways, seemed least reductive. Rather than dealing with exterior situations and biographical chronology, we have preferred here to limit ourselves to the work as given and, in particular, to interpretations of the texts in their possible bearing on a theory of reading.
[12] James R. Lawler, René Char, The Myth and the Poem, Princeton University Press 1978 trang XVI: The approach can be termed oblique in the first part, direct in the second, but the principal emphasis throughout is on close reading. Although this method is not much favored by today’s avant-garde, it allows us more than any other, I think, to enter the semantic thickness, to engage the quiddity of the poem.
[13] Nancy Kline Piore, Lightning, The Poetry of René Char, Northeastern University Press 1981 trang XVI: The following pages offer one reader’s understanding of certain portions of this mysterious poetic universe and explore the issue of artistic exposure – how much the poet allows his reader to see – as it relates to Char’s major themes and images, to his political stance, to the chief players in his poetry, and to his poetic technique itself. My approach has not been chronological, but rather through imagery.
[14] Patrick Née, René Char: Une Poétique du Retour, Editions Hermann 2007.
[15] Paul Veyne, René Char en ses poèmes trang 166.
[16] René Char, Œuvres completes trang 1294: C’est là, je crois, l’un de mes poèmes les plus “achevés”; l’aliment qui le compose ne se détériora pas, ne toucha la moelle de l’air que complètement. J’étais à cet instant lourd de mille ans de poésie et de détresse antérieure. Il fallait que je l’exprime. J’ai pris ma tête comme on saisit une motte de sel et je l’ai littéralement pulvérisée…De cette illusion atroce est né J’habite une douleur, plus quelque calme.
(còn tiếp)
đào trung đạo
http://www.gio-o.com/DaoTrungDao.html
© gio-o.com 2016