đào trung đạo
thi sĩ / thi ca
(22)
Kỳ 1, Kỳ 2, Kỳ 3, Kỳ 4, Kỳ 5, Kỳ 6, Kỳ 7, Kỳ 8, Kỳ 9, Kỳ 10, Kỳ 11, Kỳ 12, Kỳ 13, Kỳ 14, Kỳ 15, Kỳ 16, Kỳ 17, Kỳ 18, Kỳ 19, Kỳ 20, Kỳ 21, Kỳ 22,
Joel Golb: Phúng dụ trong “Hohles Lebensgehöft” và “Engführung” (116)
1. Đọc bài Hohles Lebensgehöft: Joel Golb bắt đầu bài luận văn về phúng dụ trong thơ Celan bằng trích dẫn bài Hohles Lebensgehöft trong tập Atemwende/Quay ngược hơi thở (1967). Đây là một bài thơ ngắn ngủi, tỉnh lược và cô đọng. Thật ra Celan không đặt tựa đề cho những bài thơ trong tập Atemwende, khi xuất bản người ta dùng câu thơ đầu làm tựa đề.
HOHLES LEBENSGEHÖFT. Im Windfang
die leer-
geblasene Lunge
blüht. Ein Handvoll
Schlafkorn
weht aus dem wahr-
gestammelten Mund
hinaus zu den Schnee-
gesprächen. (117)
KHOẢNG TRỐNG ĐÓNG KÍN CỦA ĐỜI SỐNG. Trong cổng vào phổi thở rỗng tuếch
nở hoa, Một nắm
sạn làm buồn ngủ
bay ra từ cái miệng
thật ngọng nghịu
về phía những lời đối thoại
của tuyết.
Nhận xét đầu tiên của Joel Golb: Bài thơ này là một quang cảnh tự phản chiếu, vừa là so sánh (simile) vừa là ẩn dụ và cũng là một thai đố (conundrum). Bài thơ một mặt tả cảnh thiên nhiên lạnh lẽo trống trải của một căn nhà bỏ hoang (Gehöft) tuyết phủ đầy quanh vùng quê. Mặt khác căn nhà này lại là “sinh địa” (lifestead). Joel Golb nhận xét về sự nghịch lư này: tựa đề bài thơ được làm cho sống động hai lần: lần thứ nhất với khói từ một nơi cư trú không người ở tỏa bay vùng quê, lần thứ nh́ với sự đồng nhất chuyển động này với diễn tiến sinh học và linh hữu (pneumatological process), “sinh địa” tương tự như buồng phổi trống không của thi sĩ và “khói” (những Schlafkorn) do buồng phổi thở ra. “Những lơi kén tưởng tượng và biến đổi này thoảng bay (hay, trong một ẩn dụ song hành, được rải ra ngoài bởi bàn tay thi sĩ trong hành vi viết) về phía “những lời đàm đạo tuyết” có nghĩa sự thông giao với người đọc.”(118) Celan chơi chữ động từ Lasen ở câu thơ thứ nh́ vừa có nghĩa “đọc” vùa “thu lượm”. Dựa trên nghĩa kép của Lasen này Joel Golb đặt vấn đề về bản chất việc đọc/thu lượm bài thơ này.
Joel Golb đặt câu hỏi về bản chất việc đọc/thu lượm (Lesen) bài thơ này và cho rằng nên tạm ngừng trả lời để t́m hiểu ư nghĩa mối quan hệ giữa Martin Buber với Celan, để thấy thông điệp của bài thơ “trong một cái chai” như Celan đă nói về thi ca của ḿnh trong bài diễn từ Bremen. Chủ đề I/Thou của Buber nằm ở trung tâm mục tiêu thi ca của Celan. “Song le, mục tiêu này không đề cập tới “chân lư” Celan ẩn dấu ở đây, trong bài thơ. Celan mô tả chân lư “thực sự lắp bắp” như “nở rộ” hay “bừng nở” cùng với “buồng phổi” của bài thơ và của thi sĩ, sâu thẳm ở bên trong cái, theo cách nói của Heidegger, chúng ta có thể gọi là hữu của sinh địa trống vắng của Celan và của bài thơ: người Đức gọi cái đó là Windfang.(119) Tuy nghĩa đen nghĩa đen của từ Windfang là “wind-trap” nhưng tra cứu từ điển hiện đại Joel Golb thấy từ này có nghĩa “porch/cổng ṿm” hay “portal/cổng vào nhà” nên cho rằng cần phải điều giải xúc cảm hiện hữu của bài thơ với h́nh ảnh căn nhà trống rỗng bốc cháy, khói tuôn từ cổng vào nhà ra quang cảnh tuyết phủ chứ không phải từ ḷ sưởi. Truy nguyên sâu xa hơn Joel Golb nhận thấy thực ra từ Windfang là một từ cổ và trang trọng chẳng hạn như trong trong tự điển lịch sử của anh em Grimm liệt kê nhiều trích dẫn về từ này. Chẳng hạn, vào thế kỷ 16 và 17 nghĩa từ này là “bellows/ống gió” thường được dùng cho đàn organ, nhưng cũng thật khôi hài trong một bản văn y học của Johann Dryander xuất bản năm 1537 ở Cologne từ này lại dùng để chỉ phổi, c̣n trong quyển Aenigmato-graphia rhythmica của Johann Sommer vào cuối thế kỷ 16 từ này lại được dùng để chỉ cổ họng, Wolgang Hohberg trong Georgia Curiosa xuất bản năm 1682 coi Windfang có nghĩa “một lỗ không khí, dùng để tăng sức mạnh luồng gió trong một cái ḷ sưởi, c̣n Gœthe lại dùng từ này thay cho một dụng cụ di chuyển được trong một cái ống khói, được dùng cho ḷ nướng thức ăn.
Sở dĩ Joel Golb phải tra cứu từ Windfang Celan dùng v́ tính chất lịch sử của nó làm cho sự tương đồng của từ này do Celan dùng được chặt chẽ với thuyết thoại của nó. “Sự bí ẩn, “chân lư” ngọng líu của bài thơ “Hohles Lebensgehöft” ẩn dấu trong toàn bộ chiều dài của cách dùng trong lịch sử của từ này, đặc biệt nhất là sự có mặt ở bên trong bài thơ một cái lỗ gió của ḷ; nó tái hiện trong cách chỉ định đương thời của từ này, cách chỉ định thôn quê cho cái ống dẫn vào nền ḷ sưởi. Không bỏ quên mối liên hệ của từ này với từ La tinh venticax, theo Joel Golb, chúng ta có thể dịch từ này như “lỗ thông”. Ư nghĩa của sự tương đồng giờ đây hiện rơ, hay “nở bung,” trong sự nhận biết diễn giải, đă xâm nhập vào phía trước cái giả ngụy của cái “cổng” trước nhà. Một mặt, có nhà thi sĩ ngủ quên, miệng lẩm bẩm nhữg từ “có thật” trong một bản văn mơ (dream-text). Những từ này, được ghi dấu như “đầy hạt làm buồn ngủ,” chuyển từ hai lá phổi của thi sĩ vào không khí ban đêm và cảnh quê tuyết phủ, được quan sát, có lẽ thế, vào một đêm từ cái cửa sổ của căn nhà vùng quê Norman của Celan, nhưng cũng biểu trưng cái quá khứ ở Bukovia cùa thi sĩ và một tương lai không tưởng (niềm “hy vọng” hằn sâu trong bài Lebensgehöft) – “những lời tuyết tṛ truyện” của một cuộc đối thoại tiếp diễn về cái chết và thi ca. Mặt khác, có cái nhà của Celan, với cái ḷ sưởi hay cái bếp ḷ kiểu xưa của căn nhà. Bên trong khung cảnh trong mơ có tính chất ẩn dụ này, cái bếp ḷ trở thành một cái ḷ nướng khủng khiếp, với những ống thổi địa ngục bơm không khí lên qua những ống khói của nó. Như than và tro sáng loáng, những ống thổi “nở hoa” trong lỗ thoát của ống khói, một dải khói tỏa ra trên đêm tối Âu châu – một diễn tiến Celan, một cách rối loạn, đồng nhất với sự biến đổi của hơi thở thi ca vào trong bản văn.”(120) Joel Golb cho rằng cũng có thể truy t́m nguồn gốc ảnh hưởng của Freud trong quyển Das Leben des Traumes/Giải thích những Giấc mơ khi Celan dùng từ Windfang theo nghĩa “cổ họng” và như vậy sẽ thấu hiểu sự so sánh nằm ở trung tâm bài thơ: “nơi ở/sinh địa trống rỗng” được coi như bản văn-thân xác (corpse-text) của một thi sĩ-trên giàn treo cổ (gallows-poet) ở pḥng hơi ngạt, là từ-kén (word-kernels) tiếng ca thoát ra từ hơi thở của kẻ sắp chết cất lên trước khi bị tử h́nh bừng nở như cái chết-pha lê (death-crystals). “Sự khắc kỷ về ngôn ngữ của Celan, thi pháp lạ lẫm của ông ta, phản ánh một ham muốn tháo bỏ tấm che mặt của thói quen từ một sự đen tối triệt để nối liền cái hiện tại với quá khứ được hồi tưởng một cách măi lập lại. Nó không chỉ biểu đạt một sự xung đột thiện ác giữa lănh vực của ngôn ngữ thông thường và một lănh vực ngôn ngữ khác không bị nhiễm độc, nhưng cũng c̣n đ8ạt trọng tâm trên một ám ảnh đạo đức. Gắn liền với điều này, Celan viết trong một mạch phơi mở, và thông điệp phơi mở của ông ta hầu như luôn luôn được dấu kín một cách ẩn ư, ở cực điểm này hay cực điểm khác, trong một loại mă tự. V́ vậy, những bản văn của ông ta thuộc về một truyền thống chung thường được gọi là phúng dụ bí ẩn, được phân biệt, theo lời của Morton W. Bloomfield, “từ những phúng dụ trong Thánh Kinh, Văn chương Cổ điển và những phúng dụ khác…trong thái độ nó [phúng dụ bí ẩn] tạo ra nơi những kẻ thành thạo và những người đọc của nó – một sự kinh ngạc về một ư nghĩa bí mật ẩn dấu, ư nghĩa này được cho là không rộng mở đối với kẻ trần tục và tầm thường.”(121)
Đi vào chủ đề chính về phúng dụ trong thơ Celan, Joel Golb trưng dẫn định nghĩa phúng dụ “theo chiều thẳng đứng” (vertical definition) của Quintilian trong Institutio Oratoria ở thế kỷ thứ nhất cho rằng đó luôn luôn là một thứ ẩn dụ mở rộng, nói về một thứ qua một thứ khác trong một chuỗi h́nh thức tự sự hay câu truyện nào đó với một cấu trúc hành động riêng biệt, nghĩa là có thời gian như một trong các thành tố tạo lập. Hơn thế nữa, những câu truyện như vậy phải ra hiệu nhu cầu tái diễn giải có hệ thống của chúng và v́ vậy ư hướng của sự hiện diện của chiều hướng chung trong bản văn. Những chỉ dấu này có thể trải ra từ sự chỉ ra rơ rệt trong một bản văn có bản chất phúng dụ của phần của tự sự của nó Quintilian gọi là permixta allegoria tới một dạng thức tượng trưng hay luợc đồ ẩn dấu hay thoáng hiện trong một mạch tự sự, tới một chuỗi những ẩn dụ tự túc minh nhiên đ̣i hỏi việc giải mă. Sau hết, trong cả hai những biến thái được Quintilian gọi là tota allegoria việc giải tự tùy thuộc vào dẫn khởi của người đọc vào một văn cảnh khiếm diện, diễn giải ngầm được chia sẻ với bản văn, với “hệ thống những giá trị” vững chắc của bản văn. Joel Golb than phiền: mặc dù có sự nh́n nhận gia tăng về bản chất ám chỉ bóng gió dày đặc và đa giá của bản chất ngôn ngữ của Celan, thế nhưng mối liên hệ của bản chất này với phúng dụ vẫn chưa được xem xét đầy đủ (chẳng hạn như Renate Böschenstein-Schäfer trong bài “Allegorische Züge in der Lyrik Paul Celans”, Henriette Beese trong bài “Nachdichtung als Erinnerung. Allegorische Lektüre einiger Gedichte von Paul Celan” và Winfried Menninghaus trong quyển sách nói về “h́nh thức ma thuật” và chuyển vận siêu ngôn ngữ của Celan.) Tuy nhiên Joel Golb cho rằng một khung ư niệm như thế là cực kỳ hữu ích cho việc đọc Celan. Thế nhưng sự chống lại lối tiếp cận này thật không ngạc nhiên chút nào v́ nó bắt đầu từ truyền thống phổ biến chống lại thể loại (genres) được liên kết với cái mà Richard Wollheim gọi là lối tiếp cận “tŕnh diễn” (approach “presentational”) tác phẩm nghệ thuật theo cách nghiên cứu văn chương chính qui của trường phái Tân Phê b́nh. Lối tiếp cận này theo Richard Wollheim bao gồm sự tin tưởng rằng một tác phẩm nghệ thuật thủ đắc những tính chất này, và chỉ có những tính chất này mà thôi, mà chúng ta có thể nhận ra hay được cho sẵn tức thời, và cương quyết gạt bỏ vai tṛ cốt tử của những yếu tố tiểu sử, lịch sử, tâm lư và những yếu tố có quan hệ khác trong phê b́nh. Thật ra quan điểm này bắt nguồn từ tranh biện của Croce trong quyển Aesthetic chống lại thể loại văn chương, tranh luận này là một h́nh thức của Chủ nghĩa Diễn đạt Lăng mạn (Romantic Expressivism) bị phản bác bởi một sự nh́n nhận chủ yếu vai tṛ của những qui ước đủ loại khác nhau trong việc quyết định phải đọc một bản văn như thế nào. Với Joel Golb, vai tṛ của thấu thị chức năng (functionalist insight) thật quan trọng trong những mục tiêu đọc Celan khi cho rằng những thể loại là những đon vị có thể nhận biết trong toàn thể một hệ thống, rằng chúng là những “lượng của sự qui kết” (quantities of attribution) có được ư nghĩa trong tương quan với các hệ thống với nhau do vậy đem lại sự chặt chẽ cho hệ thống như một toàn thể. Những nhận xét thực tiễn này làm nên sự hiểu biết về phúng dụ của Joel Golb. Chính v́ thế Joel Golb sẽ tranh biện rằng những cách tiếp cận khác nhau về dạng thức (mode) hay thể loại được các tác giả tuyên nhận là loại bỏ nhau thực ra không phải là như vậy, và c̣n hữu ích trong nhiều cách khác nhau để hiểu những bài thơ của Celan.
_____________________
(116) Joel Golb, The Allegory of “Hohles Lebensgehöft” and “Engführung” trong tập WORD TRACES, Readings of Paul Celan do Aris Fioretos chủ biên, John Hopkins University Press 1994. Xem bài Engführung (nguyên bản và bản dịch) Gió-O kỳ 14.
(117) Bản dịch Pháp văn của Jean-Pierre Lefebvre:
CREUX ENCLOS DE VIE. Dans le coupe-vente
fleurit, vidé
de son air,
le poumon. Une poignée
de graine somnifère
s’expire de la bouche
embalbutiée de vrai
vers les dialogues
de neige.
Paul Celan, Renverse du souffle, Bản dịch của Jean-Pierre Lefebvre, trang 67.
Editions du Seuil
Jean-Pierre Lefebvre có những ghi chú sau đây về bài thơ này: 1. Bài thơ được Celan viết ngày 20 tháng Hai, 1964; 2. Từ Gehöft chỉ toàn thể việc khai thác nông nghiệp quanh một khu vườn ở trung tâm, những ṭa nhà của một trang trại được đóng kín. Văn mạch ở đây gợi ư một mặt bằng nông thôn. Từ Gehöft chỉ có ở dạng danh từ. Tuy vậy cần để ư tới ư muốn của Celan đối với từ Hof vừa để chỉ trang trại lẫn sân. C̣n từ Hohl đúng ra có nghĩa phủ nhận. Đây là một bài thơ thi luận (poème poétologique) giữa hai ư tưởng về đời sống và tính chất vô tận màu trắng của những cánh đồng bị tuyết phủ (của sự chết). Từ Windfang (nghĩa đen là “hứng-gió”) để chỉ một buồng dẫn vào. 3. Miệng là một cánh cửa đi ra cho không khí thở ra sau khi đảo ngược hơi thở. 4. Phổi là một cái cây chĩa nhánh. 5. Bài thơ được kết cấu bằng h́nh ảnh một nơi chốn “đóng kín” bị làm trống rỗng. Chỉ có mỗi một “thực tại có thực” có sự vững vàng của không khí thở ra hướng về cái chết. 6. Schlafkorn chỉ “hạt gây ngủ” Jean Paul đă nói đến trong Hesperus. Hạt này để chỉ cái được “làm thành h́nh ảnh, tưởng tượng ra” và gây mê.
Bản dịch Anh văn của Michael Hamberger:
HOLLOW HOMESTEAD OF LIFE. In the porch
the lung
blown empty
blossoms. A handful
of sleep grain
wafts from the mouth
stammered true,
out to the snow
conversations.
(118) Word Traces, trang 186: These imaginative, transformative kernels are wafted (or, in a parallel metaphor, scattered outward by the poet’s hand in the act of writing) toward the “snow conversations” signifying communion with the reader.
(119) Sđd, trang 186: It does not, however, touch on the “truth” he states is hiding here, inside the poem. Celan describes this “true stammered” truth as “blooming” or “blossoming,” along with the poet’s and poem’s “lung,” deep within what, in Hedeggerian fashion, we might call the hollow homestead of Celan’s and the poem’s being:in what the German calls a Windfang.
(120) Sđd, trang 186-187: The secret, stammered “truth” of “Hohles Lebensgehöft” hides in the entire range of the word’s historical usage, most particularly in the presence inside the poem of an oven’s air hole; it surfaces in the word’s contemporary, rural designation of the outside flue to a hearth. Keeping in mind its connection with Latin venticax, we might translate the word as “vent.” The meaning of the analogy now emerges, or “blossoms,” in our interpretive awareness, having penetrated the false front of “porch.” On the one hand, there is the poet-sleeper, muttering “true” words in a dream-text. These words, an inscribed “handful of sleepgrain,” move from the poet’s lungs through the mouth into the night air and a snowy countryside, observed, perhaps, one night from the window of Celan’s Norman country home, but also representing the poet’s Bukovian past and a utopian future (the “hope” embedded in Lebensgehöft) – the “snow conversations” of an ongoing dialogue on death and poetry. On the other hand, there is Celan’s house, with its fireplace or old-fashioned stove. Inside this metaphoric dreamscape, the stove becomes a horrific oven, with an infernal bellows pumping air up through its chimney. As glowing coals and ash, the bellows “blossoms” in the chimney vent, a smoke trail wafing over the European night – a process that Celan, disturbingly, identifies with the transformation of poetic pneuma into text.
(121) Sđd, trang 188: Celan’s linguistic ascesis, his poetics of strangeness, reflects a desire to remove the veil of habit from a radical evil linking the present to a repetitively remembered past. It thus not only articulates a Manichean conflict between the realm of ordinary language and another, unpolluted realm, but also focuses on an ethical obsession. Connected to this, Celan writes in a revelatory vein, and his revelatory message is almost always cryptically embedded, to one or another extreme, in a kind of code. Consequently, his texts belong to a generic tradition often called hermetic allegory, distinguished, in the words of Morton W. Bloomfield, “from Biblical, Classical, and other allegories…in the attitude it creates in its adepts and readers – one of awe at a hidden secret meaning which presumably is not open to the profane and vulgar.
(c̣n tiếp)
đào trung đạo
http://www.gio-o.com/DaoTrungDao.html
© gio-o.com 2016