ĐẶNG PHÙNG QUÂN
Khái luận phê bình lý trí
văn chương
biên khảo triết học
nhiều kỳ
107
Chương III
LÝ LUẬN
VĂN CHƯƠNG VÀ PHÊ BÌNH VĂN HỌC
Kỳ 1, Kỳ 2, Kỳ 3, Kỳ 4, Kỳ 5, Kỳ 6, Kỳ 7, Kỳ 8, Kỳ 9, Kỳ 10, Kỳ 11, Kỳ 12, Kỳ 13, Kỳ 14, Kỳ 15, Kỳ 16, Kỳ 17, Kỳ 18, Kỳ 19, Kỳ 20, Kỳ 21, Kỳ 22, Kỳ 23,Kỳ 24, Kỳ 25, Kỳ 26, Kỳ 27, Kỳ 28, Kỳ 29, Kỳ 30, Kỳ 31, Kỳ 32, Kỳ 33, Kỳ 34, Kỳ 35, Kỳ 36, Kỳ 37, Kỳ 38, Kỳ 39, Kỳ 40, Kỳ 41, Kỳ 42, Kỳ 43, Kỳ 44, Kỳ 45, Kỳ 46, Kỳ 47, Kỳ 48, Kỳ 49, Kỳ 50, Kỳ 51, Kỳ 52, Kỳ 53, Kỳ 54, Kỳ 55, Kỳ 56, Kỳ 57, Kỳ 58, Kỳ 59, Kỳ 60, Kỳ 61, Kỳ 62, Kỳ 63, Kỳ 64, Kỳ 65, Kỳ 66, Kỳ 67, Kỳ 68, Kỳ 69, Kỳ 70, Kỳ 71, Kỳ 72, Kỳ 73, Kỳ 74, Kỳ 75, Kỳ 76, Kỳ 77, Kỳ 78, Kỳ 79, Kỳ 80, Kỳ 81, Kỳ 82,Kỳ 83, Kỳ 84, Kỳ 85, Kỳ 86, Kỳ 87,Kỳ 88, Kỳ 89, Kỳ 90, Kỳ 91, Kỳ 92, Kỳ 93, Kỳ 94, Kỳ 95, Kỳ 96, Kỳ 97, Kỳ 98, Kỳ 99, Kỳ 100, Kỳ 101, Kỳ 102, Kỳ 103, Kỳ 104, Kỳ 105, Kỳ 106, Kỳ
107,
Thơ
phá thể (tiếp theo)
Từ những bài thơ đầu tiên in
lại trong tập Mohn und
Gedächnis, ký ức về cái chết, về Holocaust để
lại dấu ấn đậm nét thân phận do thái lưu
đày, âm vọng của những người đã chết
trong những trại tập trung qua những tiếng thơ:
Espenbaum, dein Laub blickt weiß ins Dunkel
Meiner Mutter Haar ward nimmer weiß
Löwenzahn,
so grün ist die Ukraine
Meine
blonde Mutter kam nicht heim
Regenwolke,
säumst du an den Brunnen?
Meine leise Mutter weint für
alle.
Runder
Stern, du schlingst die golden Schleife.
Meiner
Mutter Herz ward wund von Blei.
Eichne
Tür, wer hob dich aus den Angeln?
Meine
sanfte Mutter kann nicht kommen.
Hoàn
diệp liễu ơi, những cánh lá của người loé
sáng trong đêm tối
Mái tóc
của mẹ ta không bao giờ bạc trắng
Bồ
công anh ơi, xứ Ukraine quá xanh lục
Mẹ
ta với mái tóc vàng hoe không thể trở về nhà
Vân
vũ ơi, có bay ngang giếng xưa?
Mẹ
ta âm thần khóc cho thế nhân
Sao tròn
ơi, ngươi lượn quanh thành vòng hoàng kim
Trái tim
mẹ ta rạn nứt vì chì
Cửa
sồi ơi, kẻ nào tháo đi những bản lề của
ngươi?
Mẹ
từ tâm của ta không được quay về.[447]
Bài
thơ như một tiếng than khóc? Không chỉ có thế.
Mẹ hiền của thi sĩ là hính ảnh lớn của
cả một dân tộc lưu đày vì trong một thư
gửi cho thân thuộc ở Israel năm 1948, Celan đã viết:
“Có thể tôi là một trong những chứng nhân cuối cùng
phải sống còn tới tận cùng định mệnh của
thần trí do thái ở châu Âu”, tại sao phải sống vì
nhà thơ vẫn không ngừng viết khi vẫn là người
Do thái và ngôn ngữ là tiếng Đức của những kẻ
sát nhân.
Có
một nỗi buồn da diết ở đó. Ví như
Michel Butor từng nói: Qui dit exil
dit tristesse! Người nào nói
lưu đày là nói đến sự buồn ràu! Không chỉ
những bài thơ viết ra trên đường đày ải,
ở Pháp năm 1949, Celan viết In Ägypten về Ai cập trong toàn bài khởi từ
mệnh lệnh:
Du
sollst zum Aug der Fremden sagen: Sei das Wasser.
Du
sollt, die du im Wasser weiß, im Aug der Fremden suchen
…
Ngươi
hãy nói vào đôi mắt người đàn bà lạ mặt:
Hãy là nước.
Ngươi
hãy tìm trong mắt kẻ lạ những gì ngươi biết
đang ở trong nước.[448]
…
Bài
thơ lấy nguồn từ Exodus
3:7: “ta đã thấy rõ sự khổ đọa của
dân ta đang ở Ai cập”, Ägypten:
tiếng Hebrew là Mitzrayim/מצרים biểu hiện cho nô lệ và lưu
đày một thời quá khứ do thái.
Phong
cách làm thơ của Celan: cặp đôi/couplet như bài thơ
Espenbaum trên vẫn nằm
trong truyền thống (có thể kể từ thế kỷ
16) tiêu biểu như Verlaine, đến hiện đại
như Tristan Tzara, René Char [449] v.v…, thơ theo lối tiểu
cú như Giuseppe Ungaretti [450], song lại có những bài
trường cú In Prag, Engführung nhịp điệu như
tụng ca/Oda Pablo Neruda.
Tuy
nhiên, về đại thể thơ Celan mang tính phá cách vì lối
đặt những chữ mới, lối dùng phép loại
ngữ/paronomase, phép nối điêu/enjambement và chẻ chữ
thành hai để tiếp giòng khiến ngôn ngữ thơ trở
nên lạ lẫm/ostranenie như quan niệm của Hình thái
luận Nga (cho nên đã có những học giả luận về
quan hệ giữa Hình thái luận Nga với thơ Celan
[451]) khác với những nguyên tắc cú pháp và ngữ nghĩa
thông thường.
Nếu
như trong tản văn, nhiều nhà văn thuộc phái tiểu
thuyết mới/nouveau roman Pháp quen dùng gạch ngang trước
mệnh đề hoặc câu văn cuối, như một
biểu thị phá thể, lối sử dụng gạch nối/hyphen/Trennungszeichen
là một từ-hoa đặc thị của thơ Celan. Có
một quá trình biến chuyển từ những bài thơ
đầu, như
Sprich auch du,
…
Sprich –
Doch
scheide das Nein nicht vom Ja.
…
Blicke
umher:
Sieh,
wie’s lebendig wird rings –
Hãy
nói đi
Nói –
Nhưng
giữ không phân cách tiếng không từ tiếng có
…
Hãy nhìn
quanh:
Nhìn,
đã nhẩy sinh động làm sao –
đến
Engführung
…
Geh,
deine Stunde
hat
keine Schwestern, du bist –
bist
zuhause.
…
…
Körnig,
körnig
und faserig. Stengelig,
dicht;
traubig
und strahlig; nierig,
plattig
und
klumpig;
locker, ver –
ästelt
-: er, es
fiel
nicht ins Wort, es
sprach,
Tiết
kết tẩu khúc
Đi,
thời giờ của mình
không có chị em, mình thì –
ở nhà.
…
hạt,
hạt và thớ. cuống,
dày;
thành cụm và rực rỡ;
hình cật,
hơi phẳng và
thành tầng; lòng thòng, rối
–
tung -; y, nó
không rơi xuống thành
lời, nó
nói,
bài
thơ sử dụng gạch nối tiêu biểu
Schaltjarhunderte,
Schalt-
sekunden,
Schalt-
geburten,
novembernd, Schalt-
tode,
…
(Unasyliert,
un-
archiviert,
un-
umfürsorgt?
Am
Leben?),
Lesestationen
im Spätwort,
…
Gefühle,
frost-
gespindelt,
Kaltstart
–
mit
Hämoglobin.
Những
thế kỷ nhuận, nhuận-
phút,
nhuận-
sinh,
đang tháng mười một, nhuận
tử,
…
(Không
nơi nương náu, không –
lưu
trữ, không –
phúc lợi?
còn –
sống
không?)
Những
trạm đọc trong lời cuối
…
Cảm
xúc, băng giá –
trục
tâm
Lạnh
khởi –
với
huyết sắc tố
Những trạm đọc trong lời
cuối với Lesestationen im Spätwort theo Felstiner là một cách chơi
chữ, liên tưởng tới Spätlese/mùa lượm cuối
những trái nho chín. Dấu gạch nối phân cát những
từ
Schalt-sekunden,
Schalt-geburten, Schalt-tode, un-archiviert, un-umfürsorgt, frost-gespindelt nhằm
nhấn mạnh đến quãng nghỉ trong mỗi từ,
chỉ ra căn nguyên và ngữ nghĩa của phủ định
từ, quan niệm huỷ tạo của thơ, những
then khoá gọi là Spätwort như Gegenwort, Wort-schatten, Wort-Vigilie, Celan có dịp trình bày trong diễn
văn Der Meridian đọc tại Darmstadt.
Maurice
Blanchot nhận ra những chỗ
nghỉ, những im lặng ở cả những bài thơ
rất ngắn của Celan không phải là những quãng nghỉ
để người đọc kịp thở, song như
một nghiêm cách/rigueur trong một bài viết ngắn nhưng
rất lạ của ông, là bên trang trái dẫn thơ và trang
phải là của người viết:
một
ngôn ngữ…không công kích người khác, không thúc
dass bewahrt sei đẩy
với bất kỳ định ý gây hấn hay phá hoại:
như thể đã có
ein durchs Dunkel chỗ cho hủy
triệt tư tại để
tha nhân được phòng giữ hay để
getragenes Zeichen duy trì một chỉ dấu mang bởi
tối tăm [452].
------------------------------------
[447] Paul Celan, Sdt: Đây là một trong nhiều bài thơ không có
nhan đề.
Thi sĩ than thở với cây
cỏ Espenbaum/cây hoàn diệp liễu lá dương phong rung
rinh, Löwenzahn/cây bồ công anh hoa vàng gợi nhớ trong kỷ
niệm mái tóc của người mẹ thương yêu (hình
ảnh người mẹ lúc nào cũng như một mỹ
nhân, không bao giờ già), hỏi mây hỏi mưa có bay ngang
giếng xưa quê nhà, nước mắt mẹ hiền khóc
cho chúng nhân cũng đầy như thế, ngôi tinh tú tròn
như vòng vương miện, cái đẹp đối lập
với cái ác (hình ảnh trong trí tưởng thi sĩ về
mẹ bị xử bắn, những viên đạn chì phát
xít phá vỡ trái tim bà?), bản lề bị tháo gỡ, cánh
cửa căn nhà xưa mở trống, nhưng mẹ hiền
không bao giờ còn trở về.
[448] Paul Celan, In Ägypten:
…
Du sollst sie rufen aus dem Wasser: Ruth!
Noëmi! Mirjam!
Du sollst sie schmücken, wenn du bei der
Fremden liegst.
Du sollst sie schmücken mit dem
Wolkenhaar der Fremden.
Du sollst zu Ruth und Mirjam und Noëmi
sagen:
Seht, ich schlaf bei ihr!
Du sollst die Fremde neben dir am
schönsten schmücken.
Du sollst sie schmücken mit dem Schmerz
um Ruth, um Mirjam und Noëmi.
Du sollst zur Fremden sagen:
Sieh, ich schlief bei diesen!
…
Ngươi hãy triệu họ
lên từ mặt nước: Ruth! Noëmi! Mirjam!
Ngươi hãy trang điểm
chúng khi ngươi nằm với kẻ lạ.
Ngươi hãy trang điểm
họ với tóc mây của kẻ
lạ.
Ngươi hãy nói với Ruth và Mirjam và
Noëmi:
Hãy nhìn, ta ngủ với nàng!
Ngươi hãy trang điểm kẻ lạ
sao cho đẹp nhất cận kề bên ngươi.
Ngươi hãy trang điểm nàng vẻ
sầu muộn cho Ruth, cho Mirjam và Noëmi.
Ngươi hãy nói với kẻ lạ:
Hãy nhìn, ta ngủ với các nàng!
[449] Paul Verlaine:
Colloque sentimental
Dans le vieux parc solitaire et glacé
Deux formes ont tout à l’heure passé
Leurs yeux sont morts et leurs lèvres
sont molles,
Et l’on entend à peine leurs paroles
Dans leur vieux parc solitaire et glacé
Deux spectres ont évoqué le passé
…
Thương
nghị tình cảm
Trong công viên xưa quạnh hiu lạnh
giá
Hai thể hình vừa mới thoáng đã
qua
Mắt không sinh khí, môi dường nhu
nhuyến
Và có nghe không lời khéo thốt ra
Trong công viên xưa quạnh hiu lạnh
giá
Gơi lên một thời quá khứ hồn
ma
Tristan Tzara:
Saluer le chemin
nuit de fer matin de glace
cri entouré de la flamme du silence
et toi au beau milieu du fruit ouvert du
jour
qu’attends-tu où va-tu racine perdue
j’attends la mousse première et le cri de
l’agneau
l’abeille secrète la hache dans la forêt
…
Chào con đường
đêm sắt sớm mai giá
tiếng kêu quanh ngọn lửa
im lặng
và em ở giữa nơi đầy
trái mở ra ban ngày
em đợi chờ gì em đi
đâu căn rễ đã mất
tôi chờ rong nước đầu
tiên và tiếng kêu của cừu non
ong nhả rìu ra trong rừng
(trong tập Terre sur Terre)
René Char:
Juron sous les saules
Je t’excuse tu vas mourir
De la quiétude qui m’enlace
Je n’en veux pas à ton mystère
Et comment croire à mon remords
La violence du jour m’est chère
Plus que la pierre qui t’endort
Lời thề dưới
liễu
Anh tha thứ cho em, em đi vào
cõi chết
Trong niềm tĩnh lặng ôm
lấy anh
Anh không hận điều bí mật
của em
Và làm sao tin niềm hối tiếc
của anh
Bạo lực của ngày với
tôi quá đắt
Hơn cả phiến đá ru
em vào giấc ngủ
(trong tập Loin de nos cendres)
[450] Giuseppe Ungaretti:
Eterno
Tra un fiore colyo e l’altro donato
L’inesprimibile nulla
Vĩnh hằng
Giữa một bông hái và một
bông cho
hư vô không tả xiết
Notte di maggio
Il cielo pone in capo
ai minareti
ghirlande di lumini
Đêm tháng Năm
Trời bày trên ngọn
tháp giáo đường
những vòng hoa đăng
Tramonto
Il carnato del cielo
sveglia oasi
al nomade d’amore
Lúc mặt trời lặn
Da trời hồng thắm
gợi thức những ốc
đảo
trong du cư tình ái
(trong tập L’allegria)
Silenzio stellato
E gli alberi e la notte
Non si muovono più
Se non da nidi
Đêm sao
Và
cây và đêm
Không lay động
Ngoài những tổ uyên
ương
(trong tập Sentimento del tempo)
Chính Celan cũng đã dịch
thi phẩm Il dolore/nỗi đau
1947, La terra promessa/miền đất hứa 1950, Il taccuino
del vecchio/ký của lão ông 1950 của G. Ungaretti, những câu như:
Nella tenebra, muta
Cammini in campi vuoti d’ogni grano
Im lặng trong bóng tối
Em di trong những cánh đồng
trơ trụi mọi hạt bông
nghe như đồng vọng
với hơi thơ của mình.
[451] Xem: Vita Zilburg, Engführung as a Case Study of Paul Celan’s Poetics
of the Uncanny (in trong hợp tuyển Hauntings I I: Uncanny, Figures and Twilight Zones, Image &
Narrative Vol 13, No 1 2012).
[452] M. Blanchot, Le dernier à parler (trong La Revue de Belles-Lettres 1972): un tel
langage… ne frappe pas l’autre, ne soit animé de nulle intention aggressive ou
destructrice: comme si avait déjà eu lieu la destruction de soi pour qu’autre
soit preservé ou pour que soit maintenu un signe porté par
l’obscurité.
Bị
chú: đoạn in nghiêng là dẫn thơ Celan.
(còn nữa)
Đặng Phùng Quân
http://www.gio-o.com/DangPhungQuan.html
© gio-o.com 2013