ĐẶNG PHÙNG QUÂN

Khái luận phê b́nh lư trí văn chương

biên khảo triết học nhiều kỳ

86

Chương III

LƯ LUẬN VĂN CHƯƠNG VÀ PHÊ B̀NH VĂN HỌC 

 

Kỳ 1, Kỳ 2, Kỳ 3, Kỳ 4, Kỳ 5, Kỳ 6, Kỳ 7, Kỳ 8, Kỳ 9, Kỳ 10, Kỳ 11,  Kỳ 12, Kỳ 13, Kỳ 14,  Kỳ 15, Kỳ 16, Kỳ 17, Kỳ 18, Kỳ 19, Kỳ 20, Kỳ 21, Kỳ 22, Kỳ 23, Kỳ 24, Kỳ 25, Kỳ 26,  Kỳ 27,  Kỳ 28, Kỳ 29, Kỳ 30, Kỳ 31, Kỳ 32,  Kỳ 33, Kỳ 34, Kỳ 35, Kỳ 36, Kỳ 37, Kỳ 38, Kỳ 39,  Kỳ 40, Kỳ 41, Kỳ 42, Kỳ 43, Kỳ 44, Kỳ 45, Kỳ 46, Kỳ 47, Kỳ 48, Kỳ 49, Kỳ 50, Kỳ 51, Kỳ 52, Kỳ 53, Kỳ 54, Kỳ 55, Kỳ 56, Kỳ 57, Kỳ 58,  Kỳ 59, Kỳ 60, Kỳ 61, Kỳ 62, Kỳ 63, Kỳ 64,  Kỳ 65, Kỳ 66,  Kỳ 67, Kỳ 68, Kỳ 69, Kỳ 70, Kỳ 71, Kỳ 72, Kỳ 73, Kỳ 74, Kỳ 75, Kỳ 76, Kỳ 77,  Kỳ 78,   Kỳ 79,  Kỳ 80,   Kỳ 81, Kỳ 82,Kỳ 83, Kỳ 84, Kỳ 85, Kỳ 86,                               

Phá thể tiểu thuyết (tiếp theo)

 

Ở một đoạn trên, tôi đă đề cập tác phẩm Marbot của Hildesheimer do Jean-Marie Schaeffer đưa ra phân tích ở chương luận về Giả tưởng/Fiction, mà giả tưởng có nghĩa là tiểu thuyết. Schaeffer phê phán: Khi mở rộng luận lư mô phỏng đến tận khung cảnh thực dụng thiết chế không gian tṛ chơi giả tưởng, Hildesheimer thay v́ khai phá một h́nh thái giả tưởng mới, lại nhốt độc giả của ông không được hướng dẫn vào trong bẫy (vô ư) bị mắc lừa [271].

Trong phần thư mục tham khảo, không hề nói đến Borges chứng tỏ Schaeffer không chú ư đến trong quá tŕnh diễn biến văn chương, những sự kiện xẩy ra đă đưa cái nh́n sáng tạo vẽ ra những chân trời khác lạ, không c̣n đóng khung trong những ước lệ cổ điển.

Ở Kathy Acker, không cần tạo ra nhân vật mới làm đối trọng, nên chọn Don Quixote để viết tiểu thuyết hiện đại nhưng thuộc phái nữ. Với Borges ngay từ năm 1939, đă dựng nhân vật sáng tạo, như Marbot sau này của Hildesheimer, một tác giả người Pháp Pierre Ménard ở thế kỷ 20 để viết ra “không phải một Don Quijote khác…, nhưng là viết chính bản Don Quijote. Không cần phải nói thêm là không bao giờ hướng về việc sao lục máy móc nguyên bản, cũng không dự tính chép lại”[272].

Trong Pierre Menard, autor del Quijote, Borges khẳng quyết: Bản văn của Cervantes và bản văn của Menard về mặt ngôn từ th́ đồng nhất, song bản thứ hai hầu như phong phú vô cùng (Hàm hồ hơn nhiều, những kẻ phỉ báng nó sẽ nói như thế, song hàm hồ là một phong phú.)[273]

Để so sánh hai bản văn, Borges xem như “một phát lộ khi dẫn ra don Quijote của Menard với don Quijote của Cervantes. Chẳng hạn, bản sau viết (Don Quijote, phần một, chương chin):

la verdad, cuya madre es la historia, émula del tiempo, depósito de las acciones, testigo de lo pasado, ejemplo y aviso de lo presente, advertencia de lo por venir.

Viết ra ở thế kỷ mười bảy, viết bởi “người thường/không chuyên có tài năng” Cervantes, đoạn liệt cử này chỉ là một tán dương về mặt tu từ của lịch sử. Mặt khác, Menard viết:

…la verdad, cuya madre es la historia, émula del tiempo, depósito de las acciones, testigo de lo pasado, ejemplo y aviso de lo presente, advertencia de lo por venir.

Lịch sử, mẹ của chân lư; ư tưởng thật làm sửng sốt. Menard, người đương thời với William James, không xác định lịch sử như một điều nghiên thực tại, nếu không muốn nói như nguyên uỷ của nó. Chân lư lịch sử, đối với ông, không là cái xảy ra; nó là cái chúng ta xét đoán phải xảy ra [274].

Bản văn Pierre Menard, tác giả don Quijote của Borges như đă dẫn, in trong Ficciones có phải là một thể loại văn chương mới? như trong tṛ chuyện với Georges Charbonnier [275].

Khi G. Charbonnier đặt vấn đề: Nếu để tiến tới cùng một thứ, mỗi người phải mượn con đường của ḿnh, chúng ta hiểu  rất rơ là đồng nhất đạt được do nhiều con đường khác nhau phải khoác những bộ diện khác nhau…Ư tưởng đầu tiên khiến chúng ta phải cười: đó là một người chép lại một chương và cho nó là của ḿnh?

Borges giải đáp: Ông ta không chép nó một cách đúng như thế. Ông ta quên nó v́ ông ta thấy lại nó ở chính ông ta. Ít ra ở đó có một ư tưởng người ta không chế ra, mà làm việc với trí nhớ, hay nói một cách rơ ràng hơn, làm việc với quên lăng.[276]

Cuối cuộc đàm thoại, Borges kết thúc: Một quyển sách muốn lưu tồn, là một quyển sách người ta phải có thể đọc qua nhiều cách. Trong mọi t́nh huống, người ta có thể cho phép một bản đọc biến hoá, thay đổi. Mỗi thế hệ đọc những quyển sách lớn theo một lối khác nhau.

Dưới cái nh́n lạc quan của Borges, liệu những vấn đề văn chương đă đề ra có đi vào ngơ cụt, hay đạp đổ để tới một chân trời mới?

Raymond Queneau, thủ lĩnh Oulipo đă thực hiện những bài tập thử bút, từ một bản văn tạo ra chin mươi chin bản văn khác nhau, cùng chung một mối/le même [277], từ phức kư, biến ngữ cưỡng ư, ẩn dụ, thuận nghịch độc, đoán chừng, văn pháp điên đảo, tự mê/đố chữ, lược âm/aphérèse, lược chữ, lược xuyết, thêm vào ngữ thủ, tháp tự/épenthèse, chuyển hoán âm vị [278] v.v…  

Oulipo xuất hiện vào năm 1960, thời điểm của tiểu thuyết mới, Tel Quel, đánh dấu thời quá độ từ cấu trúc luận qua hậu cấu trúc luận, hiện đại luận qua hậu hiện đại luận. Huỷ tạo, phá thể thực sự như những vận động văn chương trước và sau những biến động chính trị, ư thức hệ, giá trị lịch sử và những khu biệt chứng thực phản lư và nan đề vẫn là những vấn đề lư luận chung cho cả triết học và văn chương, khả dĩ c̣n xác định cáo chung hay hoàn tất từ những công tŕnh dự thành không chấm dứt. Phải chăng vẫn tồn tại vấn đề?

 

-----------------------------

[271] J.-M. Schaeffer, Pourquoi la fiction 1999.

[272] Borges, Sdt: No quería componer otro Quijote…sino el Quijote. Inútil agregar que no encaró nunca una transcripción mecánica del original; no se proponía copiarlo.

Nhưng Menard là ai? Có nhiều giả thuyết đi t́m Menard hiện hữu như thể  một nhà văn không nổi tiếng, một nhà thơ tượng trưng không nổi tiếng trong văn chương Pháp, mà Borges dựa đó tạo ra nhân vật này. Tuy nhiên, ảnh hưởng của tạo một nhân vật thực/giả rơ rệt nơi nhiều người viết sau Borges.

[273] Borges, Sdt: El texto de Cervantes y el de Menard son verbalmente idénticos, pero el Segundo es caci infinimente más rico. (Más ambiguo, dirán sus detractors; pero la ambigüedad es una riqueza.)

[274] Borges, Sdt: Es una revelación cotejar el don Quijote de Menard con el de Cervantes. Éste, por ejemplo, escribió (Don Quijote, primera parte, novena capítulo):

…chân lư, mà mẹ là lịch sử, là địch thủ của thời gian, kho chứa những hành động, chứng nhân của quá khứ, điển h́nh và bài học của hiện tại, cảnh báo của tương lai.

Redactada en el siglo diesiete, radactada por el “ingenio lego” Cervantes, esa enumeración es un mero elogio retórico de la historia. Menard, en cambio. Escribe:

…chân lư, mà mẹ là lịch sử, là địch thủ của thời gian, kho chứa những hành động, chứng nhân của quá khứ, điển h́nh và bài học của hiện tại, cảnh báo của tương lai.

La historia, madre de la verdad; la idea es asombrosa. Menard, contemporáneo de William James, no define la historia como una indagación de la realidad sino como su origen. La verdad histórica, para él, no es lo que sucedió, es lo que juzgamos que sucedió.

Bị chú: trong phần chính văn ở trên, tôi để nguyên văn đoạn dẫn trong Don Quijote để tiện đối chiếu.

Lego ở đây hàm ngụ ‘người thường’, c̣n mang ư nghĩa ‘không chuyên môn’ so sánh giữa Cervantes (thực) và Menard (giả)

[275] Jorge Luis Borges, Enquêtes suivi de Entretiens 1986: Paul và Sylvia Bénichou dịch từ Otras Inquisiciones 1974 và phụ lục là Georges Charbonnnier, Entretiens avec Jorge Luis Borges.

[276] Borges, Sdt.

Georges Charbonnier: Si pour parvenir au même, chacun doit emprunter sa voie, nous comprenons très bien que l’identique atteint par des voies différentes peut revêtir des aspects differents…La première idée nous faisait rire: un home copie un chapitre et le donne pour sien.

J. Borges: Il ne le copie pas exactement. Il l’oublie puis il le retrouve en lui-même. Il y aurait là un peu l’idée qu’on n’invente rien, qu’on travaille avec la mémoire ou, pour parler d’une façon plus précise, qu’on travaille avec l’oubli.

Bị chú: những cuộc đàm thoại này bằng tiếng Pháp, v́ Charbonnier không nói được (?) tiếng Tây ban nha, và Borges nói thông thạo Pháp ngữ.

[277] Queneau, Exercices de style 1947:

                                           Notations

Dans l’S, à une heure d’affluence. Un type dans les vingt-six ans, chapeau mou avec cordon remplaçant le ruban, cou trop long comme si on lui avait tiré dessus. Les gens descendent. Le type en question s’irrite contre un voisin. Il lui reproche de le bousculer chaque fois qu’il passé quelqu’un. Ton pleurnichard qui se veut méchant. Comme il voit une place libre, se précipite dessus.

Deux heures plus tard, je le rencontre Cour de Rome, devant la gare Saint-Lazare. Il est avec un camarade qui lui dit:”Tu devrais faire mettre un bouton supplémentaire à ton pardessus.”Il lui montre où (à l’échancrure) et pourquoi.

Kư phổ

Trong tuyến đường S, vào một giờ cao điểm. Một gă trạc tuổi hai mướ sáu, mũ mềm với sợi giây thay cho dải mũ, cổ rất dài như thể ai kéo lên. Người người đi xuống. Gă nói đến ở đây gây sự với người kế bên. Gă trách y xô đẩy mỗi lần có người đi ngang. giọng như giả khóc song có vẻ dữ tợn. Khi gă thấy một chỗ trống, nhẩy phóc lên.

 Hai tiếng đồng hồ sau, tôi gặp gă ở đường Cour de Rome [trong quận 8 Paris], trước nhà ga Saint-Lazare. Gă đi với một người bạn đang nói với gă:”Bạn phải đóng một cái cúc phụ lên áo khoác của bạn.” Y chỉ cho gă ở (chỗ khoét) và tại sao.

 

Ở bản văn kế, Queneau viết:

                                           En partie double

Vers un milieu de la journée et à midi. Je me trouvai et montai sur la plate-forme et la terrasse arrière d’un autobus er d’un véhicule des transports en commun bonde et quasiment complet de la ligne S et qui va de la Contrescarpe à Champerret. Je vis et remarquai un jeune home et un vieil adolescent assez ridicule et pas mal grotesque   cou maigre et tuyau décharné, ficelle  et cordelière autour du chapeau et couvre-chef. Après une bousculade et confusion, il dit et profère d’une voix et d’un ton larmoyants et pleurnichards que son voisin et covoyageur fait exprès et s’efforce de le pousser et de l’importuner chaque fois qu’on descend et sort. Cela déclaré et après avoir ouvert la bouche, il se précipite et se dirige vers une place et un siege vides et libres

Deux heures après et cent vingt minutes plus tard, je le rencontre et le revois Cour de Rome et devant la gare Saint-Lazare. Il est et se trouve avec un ami et copain qui lui conseille de et l’incite à faire ajouter et coudre un bouton et un rond de corozo à son pardessus et manteau.

                                           Phức kư/Phần đôi

Vào giữa ban ngày và đúng ngọ. Tôi ở và leo lên nền ngoại hiên sau xe buưt và chuyên chở chung và toàn diện cuả tuyến S đi từ Contrescarpe đến Champerret. Tôi thấy và nhận ra một thanh niên và trung niên khá kỳ quặc và không kém phần thô kệch cổ gầy và ống hốc hác, giây và dải quanh mũ măo. Sau một xô đẩy hỗn độn, y nói ra bằng một giọng bi thảm đầy nước mắt là người đứng bên đồng hành cố ư và gắng xô y và quấy rầy y mỗi lần có người xuống và đi ra. Nói ra điều đó và sau khi mở miệng, y vội vă và đi về một chỗ và ngồi trống bỏ không

Hai giờ sau và trăm hai chục phút sau, tôi gặp y và lại thấy y ở đường Cour de Rome và trước nhá ga Saint-Lazare. Y ở đó với một người bạn chỉ dạy y và thúc y làm thêm và may một cái nút với một ṿng ngà giả lên áo khoác của y.

Bị chú: Trong Phức kư này, Queneau cố ư sử dụng những cụm từ nước đôi và lặp nghĩa như: milieu de la journée/midi, me trouvai/montai, plate-forme/terrasse, autobus/véhicule des transports, vis/remarquai, jeune home/vieil adolescent, voisin/covoyageur, fait exprès/s’efforce, deux heures après/cent vingt minutes plus tard, ami/copain, bouton/rond de corozo, pardessus/manteau và thời động từ quá khứ đơn thuần và hiện tại để lẫn lộn giữa miêu tả và thuyết thoại.

 

Trái ngược với bản văn trên, ở bản thứ ba Queneau viết lối biến ngữ cưỡng ư - kiểu viết chặt chịa (une manière d’écrire serrée) như Stendhal, Montherlant, nói ít hiểu nhiều (on dit le moins pour le plus), hiếm tính từ và trạng từ:

                                           Litotes

Nous étions quelques-uns à nous déplacer de conserve. Un jeune home, qui n’avait pas l’air très intelligent, parla quelques instants avec un monsieur qui se trouvait à côté de lui, puis il alla s’asseoir. Deux heures plus tard, je le rencontrai de nouveau; il était en compagnie d’un camarade et parlait chiffons.

                                           Biến ngữ cưỡng ư

Mấy ngưới chúng tôi di chuyển cùng đường. Một thanh niên, không có vẻ thong minh lắm, đôi lúc nói với một ông  bên cạnh y, rồi y kiếm chỗ ngồi. Hai giờ sau, tôi lại gặp  y; y đi với một người bạn và nói chuyện quần áo.

 

Dưới một thể loại khác:

                                           Analyse logique

Autobus.

Plate-forme.

Plate-forme d’autobus. C’est le lieu.

Midi.

Environ.

Environ midi. C’est le temps.

Voyageurs.

Querelle.

Une querelle de voyageurs. C’est l’action.

Homme jeune.

Chapeau. Long cou maigre.

Une jeune homme avec un chapeau et un galon tressé autour. C’est le personage principal.

Quidam.

Un quidam. C’est le personage second.

Moi.

Moi.

Moi. C’est le tiers personage. Narrateur.

Mots.

Mots.

Mots. C’est ce qui fut dit.

Place libre.

Place occupée.

Une place libre ensuite occupée. C’est le résiltat.

La gare Saint-Lazare.

Une heure plus tard.

Un ami.

Un bouton.

Autre phrase entendue. C’est la conclusion.

Conclusion logique.

Phân tích luận lư

Xe buưt

Sàn.

Sàn xe buưt. Đó là nơi chốn.

Giữa trưa.

Ước chừng.

Chừng giữa trưa. Đó là thời gian.

Hành khách.

Căi lộn.

Cuộc căi lộn của hành khách. Đó là hành động.

Thanh niên.

Mũ. Cổ dài ốm

Một thanh niên với chiếc mũ và giải kết xung quanh. Đó là nhân vật chính.

Người nào.

Một người nào. Đó là nhân vật phụ.

Tôi.

Tôi.

Tôi. Đó là nhân vật thứ ba. Người thuyết thoại.

Những chữ.

Những chữ. Đó là điều nói ra.

Nơi trống.

Nơi đă bị chiếm.

Một nơi trống rồi bị chiếm. Đó là kết quả.

Nhà ga Saint-Lazare.

Một giờ sau.

Một người bạn.

Một nút áo.

Câu khác nghe được. Đó là kết luận.

Kết luận có lư luận.

 

Trong chin mươi chin bản văn đó, có một bản Queneau đặt nhan đề:

                                           Permutations par groupes croissants de lettres

Rvers unjou urlap midis ormea latef eduna rrièr sdela utobu sjape ligne njeun rçusu eauco ehomm longp utrop taituy uipor eauen nchap dunga touré essé lontr….

                                           Hoán vị bằng những nhóm chữ tăng sinh

Vào một buổi trưa trên nền sau xe buưt nhận ra một thanh niên cổ dài đội chiếc mũ có giải kết…           

 

[278] Raymond Queneau, Sdt: litote/biến ngữ cưỡng ư, nói nhún; métaphore/ẩn dụ; retrograde/thuận nghịch độc; prognostication/dự trắc; synchyse/văn pháp diên đảo; anagramme/ tự mê, đố chữ; aphérèse/ lược âm; apocope/lược chữ; syncope/lược xuyết; prosthèse/thêm vào đầu chữ (ngữ thủ); épenthèse/tháp tự; métathèse/chuyển hoá âm vị.

Tôi sẽ luận về những khái niệm trên trong chương 6, văn phong học và chương 9, những thông số văn học.

 

(c̣n nữa)

  

Đặng Phùng Quân
 

http://www.gio-o.com/DangPhungQuan.html

 

© gio-o.com 2013