ĐẶNG PHÙNG QUÂN
Khái luận phê b́nh lư trí văn chương
biên khảo triết học nhiều kỳ
104
Chương III
LƯ LUẬN VĂN CHƯƠNG VÀ PHÊ B̀NH VĂN HỌC
Kỳ 1, Kỳ 2, Kỳ 3, Kỳ 4, Kỳ 5, Kỳ 6, Kỳ 7, Kỳ 8, Kỳ 9, Kỳ 10, Kỳ 11, Kỳ 12, Kỳ 13, Kỳ 14, Kỳ 15, Kỳ 16, Kỳ 17, Kỳ 18, Kỳ 19, Kỳ 20, Kỳ 21, Kỳ 22, Kỳ 23,Kỳ 24, Kỳ 25, Kỳ 26, Kỳ 27, Kỳ 28, Kỳ 29, Kỳ 30, Kỳ 31, Kỳ 32, Kỳ 33, Kỳ 34, Kỳ 35, Kỳ 36, Kỳ 37, Kỳ 38, Kỳ 39, Kỳ 40, Kỳ 41, Kỳ 42, Kỳ 43, Kỳ 44, Kỳ 45, Kỳ 46, Kỳ 47, Kỳ 48, Kỳ 49, Kỳ 50, Kỳ 51, Kỳ 52, Kỳ 53, Kỳ 54, Kỳ 55, Kỳ 56, Kỳ 57, Kỳ 58, Kỳ 59, Kỳ 60, Kỳ 61, Kỳ 62, Kỳ 63, Kỳ 64, Kỳ 65, Kỳ 66, Kỳ 67, Kỳ 68, Kỳ 69, Kỳ 70, Kỳ 71, Kỳ 72, Kỳ 73, Kỳ 74, Kỳ 75, Kỳ 76, Kỳ 77, Kỳ 78, Kỳ 79, Kỳ 80, Kỳ 81, Kỳ 82,Kỳ 83, Kỳ 84, Kỳ 85, Kỳ 86, Kỳ 87,Kỳ 88, Kỳ 89, Kỳ 90, Kỳ 91, Kỳ 92, Kỳ 93, Kỳ 94, Kỳ 95, Kỳ 96, Kỳ 97, Kỳ 98, Kỳ 99, Kỳ 100, Kỳ 101, Kỳ 102, Kỳ 103, Kỳ 104,
Thơ phá thể (tiếp theo)
Schibboleth gắn liền với lịch sử, với thời gian và lưu đày. Tính riêng biệt của Celan là nhan đề những bài thơ ông viết ra gợi cảm hứng cho người đọc và tiếp nhận ông: chẳng hạn Jacques Derrida lấy bài thơ Schibboleth nói trên khi viết ra: Schibboleth: Pour Celan; Hans-Georg Gadamer viết thích nghĩa cho Atemkristall dưới dạng hỏi: Wer bin Ich und wer bist Du?; Maurice Blanchot lấy câu hai ‘sprich als letzter’ trong bài Sprich auch du để viết Le dernier à parler; Christopher Fynsk dùng câu từ Diễn văn Celan đọc ở Bremen làm tựa đề cho chương 4: The Realities at Stake in a Poem trong Language and Relation [426].
Schibboleth có nghĩa là khẩu lệnh (shibbólet/ שִׁבֹּלֶת) nguyên ngữ từ tiếng do thái/Hebrew [427] đă xuất hiện trong một bài thơ khác của Celan:
In eins
Dreizehnter Feber. Im Herzmund
Erwachtes Schibboleth. Mit dir,
Peuple
de Paris.No pasarán.
Schäfchen zur Linken: er, Abadias,
der Greis aus Huesca, kam mit den Hunden
über das Feld, im Exil
stand weiß eine Wolke
menschlichen Adels, er sprach
uns das Wort in die Hand, das wir brauchten, es war
Hirten-Spanisch, darin,
Im Eislicht des Kreuzers “Aurora”:
die Bruderhand, winkend mit der
von den wortgroßen Augen
genommenen Binde – Petropolis, der
Unvergessenen Wanderstadt lag
auch dir toskanisch zu Herzen.
Friede den Hütten!
Trong một
Mười ba tháng Hai. Trong tâm khẩu
thốt lên khẩu lệnh. Với anh,
Người dân
Paris. No pasarán.
Với đàn cừu non phía bên trái: ông, Abadias,
lăo già từ miền Huesca, đến với bầy chó nhỏ
trên cánh đồng, trong lưu đày
sừng sững đóa mây trắng
cao nhă của con người, ông nói
với chúng ta lời trong tay, lời chúng ta cần có, đó là
Người chăn-Tây ban nha, ở nơi đó
trong ánh sáng băng của con tàu “Aurora”:
bàn tay anh em, vẫy tôi với
đôi mắt mở lớn lời
thoát ra từ bịt mặt – Petropolis
vẫn là thành phố lưu động không lăng quên
là Toskana gần kề trong trái tim anh.
B́nh an cho mọi nhà tranh![428]
Luận về thơ Schibboleth như đă dẫn của Derrida là bài đọc trong hội luận quốc tế về Paul Celan tại đại học Washington, Seatle tháng Mười 1984, mở đầu bằng câu: Une seule fois: la circoncision n’a lieu qu’une fois [429], trong phân tích ngữ nguyên và tỷ giảo ngôn ngữ, Derrida chú trọng đến từ ‘une fois’ qua những ngôn ngữ khác là einmal, once, one time, una volta, chẳng hạn trong tiếng Tây ban nha vez, ở toàn bộ cú pháp như vicem, vice, vices, vicibus, vicissim, in vicem, vice versa, vicarious đều hàm nghĩa chuyển động trong không gian (quay, trở lại, đổi chỗ v.v…); trong biểu ngữ tiếng Anh one time chỉ thời gian, không hàm nghĩa như tiếng Pháp, tiếng Ư, tiếng Tây ban nha. Nói đến cát lễ [lễ cắt da qui đầu] chỉ diễn ra một lần, thời [điểm] này vừa là ‘à la fois, at the same time’ vừa là ‘en même temps, the first and last time’, ư ông muốn nói đến “trở lại việc tự đánh dấu như thể một lần duy nhất”[430].
Cát lễ thực sự chỉ diễn ra một lần trong đời người, song c̣n hàm chỉ người Do thái. Nếu trong bản văn của Derrida tập trung vào ba chủ điểm: thời gian/ngày tháng, shibboleth và cát lễ (trong cuộc phỏng vấn của Évelyne Grossman, Derrida giải thích những thời điểm có thể đánh dấu những gặp gỡ với Celan, hoặc chia xẻ với Celan cả về thời gian lẫn không gian: như ngày 20 tháng Giêng, mỗi ngày 13 tháng Hai v.v…những bài thơ đánh dấu thời điểm ở Zürich, Tübingen, Todtnauberg, Paris, Jerusalem, Lyon, Tel Aviv, Wien, Assisi, Geneva v.v…), Shibboleth như kinh nghiệm về ngôn ngữ (đa phức và di trú của ngôn ngữ: Derrida nhận xét Celan không phải là người Đức, tiếng Đức không phải là ngôn ngữ duy nhất của Celan thuở thiếu thời, và cũng không chỉ làm thơ bằng tiếng Đức; ông biến đổi và tôi luyện ngôn ngữ Đức), và cát lễ là vết thương đau cần giải mă, như dẫn lời cuối trong bài thơ Mơ từ canh thức [431]:
Nó mang theo
niềm đau khi đọc
ḍng thơ này có thể hiểu như kinh qua điều ǵ đọc được đến rướm máu, bị thương, và Derrida lư giải nhà thơ Do thái không chỉ hiểu theo nghĩa là một thi sĩ, song là con người bị ngôn ngữ cát lễ, hay dẫn đến chỗ cát lễ một ngôn ngữ; cát lễ hiểu theo ba nghĩa: cắt một phần thuộc bộ phận sinh dục nam/qui đầu, cắt tṛn thành một ṿng/anneau; danh xưng để chỉ thời điểm liên hợp/alliance trong cộng đồng (một schibboleth chia cắt và phân bố trên ngôn ngữ như Do thái và Ai cập); kinh nghiệm chúc phúc và thanh tẩy.
Derrida dẫn chứng, để củng cố quan niệm cát lễ/circoncision là then khóa trong thơ Celan: từ này xuất hiện một lần duy nhất dưới thể mệnh lệnh: beschneide trong bài Cho một người đứng trước cửa:[432]
Giáo sĩ, tôi nghiến răng giận, Giáo sĩ
Löw ơi:
V́ chuyện này
hăy cắt chữ đi.
ở mở đầu bài thơ, nhân vật xưng tôi có thể là nhà thơ:
CHO MỘT NGƯỜI ĐỨNG TRƯỚC CỬA, một
buổi chiều:
cho y
tôi mở lời -–
Derrida gọi đây là một phúng dụ, biểu hiệu/allégorie , cưu mang một lời/từ: nhà thơ, nhân vật xưng tôi mở lời nói với Giáo sĩ, người được ủy nhiệm làm người cát lễ, khi nói hăy cắt/beschneide. Yêu cầu ǵ ở ông ta?
Dẫn hai câu thơ cuối bài:
Wirf auch die Abendtür zu, Rabbi
Cũng đóng sầm cửa chiều chặt lại, Giáo sĩ
….
Reiß die Morgentür auf, Ra –
Đẩy tung cửa sáng ra, Ra -
Derrida lư giải hai động từ sử dụng ở đây: câu thơ trên dùng Zuwerfen/đóng sầm cửa lại, bạo động, tàn nhẫn như thể hướng về phía người, bế cửa, từ khước người; câu thơ sau dùng Aufreißen/th́nh ĺnh mở toang ra, xé mở như xé tấm màn;
Đóng cửa và mở cửa buổi sáng ngụ ư ǵ? Nếu cửa/porte nói đến là lời/từ/parole như vậy thi sĩ yêu cầu ở ông ta lời buổi sáng, lởi phương Đông, bài thơ tự nguồn - một khi chữ/mot đă cắt hiểu theo nghĩa cát lễ.
Ngụ ư cưu mang của chữ từ theo một chuyển động hay thăng trầm của thời/giờ, từ chiều đến sáng, thời/giờ tuần tự, in vicem, vice versa [nguyên văn của Derida]: thăng trầm bắt đầu từ một buổi chiều/eines Abends, trong phương Tây của bài thơ.
Ở câu thơ cuối dẫn trên, từ Ra- , tên bị cắt trong chỗ ngắt hơi, ngắt giọng/césure cuối cùng, âm tiết đầu của tên gọi không hoàn tất, vẫn giữ trong miệng, ở từ Rabbi cắt làm hai đó, theo Derrida có lẽ để gợi lên Thần Ai cập, mặt trời hay ánh sáng, vào lúc mở ra của “cánh cửa buổi sáng”.
Tuy vậy Derrida xác định không có ư giải mă bài thơ v́ theo ông, một bài thơ về bài thơ cũng có nghĩa là chuyển biến thành thơ của chữ, chuyển biến thành Do thái, tóm lại “mọi thi sĩ là người Do thái”, mô tả “chuyển biến thành cát lễ” của từ nguồn, tức là cát lễ/cắt da qui đầu, đó là trần thuật, thuyết thoại của cát lễ. Ông liên tưởng đến schibboleth là một từ cát lễ.[433]
Song, thực sự Schibboleth có phải chỉ là cát lễ? Khi đặt vấn đề trong diễn tŕnh văn chương Pháp, người viết lịch sử văn học Pierre Brunel hỏi:”Có lẽ chúng ta [người Pháp] không có một Celan của chúng ta?” nhận xét: nghịch lư của tính bất thông giao khả dĩ thông giao, nan đề Derrida không đi đến chỗ lưu lăng của schibboleth? [434]
Tại sao? Trong thơ In eins dẫn trên, tại sao Celan lập lại đề từ Friede den Hütten/B́nh an cho mọi lều tranh! của Büchner?
------------------------------
[426] J. Derrida, Schibboleth: Pour Paul Celan (Schibboleth: V́ Celan) 1986; H.-G. Gadamer, Wer bin Ich und wer bist Du? Kommentar zu Celans Gedichtfolge ‘Atemkristall’(Tôi là ai và anh là ai? Thích nghĩa về tập thơ ‘Hơi thở pha lê’)1973; M. Blanchot, Le Dernier à parler (nói như thể cuối cùng) 1984; C. Fynsk, Language and Relation…that there is language (Ngôn ngữ và quan hệ…nên có ngôn ngữ…)1996.
[427] Shibboleth từ ư nghĩa ban đầu để chỉ hạt ngũ cốc, hay ḍng nước đă trở thành khẩu ngữ để phân biệt lư lịch, như câu chuyện trong Kinh do thái: người của Gilead chiếm cứ những pháo đài của Jordan dẫn đến Ephraim, và khi những người sống sót của Ephraim (Ephramites) muốn đi ngang trạm gác nói “làm ơn cho tôi đi qua”, người Gilead/Gileadites hỏi “anh có phải là người Ephraim?” nếu y trả lời: không, họ sẽ bảo: “được rồi, hăy nói ‘Schibboleth” đi”, nếu y nói thành: “Shibboleth” (v́ phương ngôn Ephrain không có âm vị /ʃ/), y sẽ bị người Gilead giết.
Từ này về sau trở thành phương tiện để nhận dạng nguồn gốc dân tộc, thổ âm khác nhau.
[428] Bài thơ In eins của Celan viết năm 1962 in trong tập Die Niemandsrose 1963. Một số những tên và địa danh cần chú giải: Ngày mười ba tháng Hai đánh dấu ít ra hai sự biến tương tự: 13 tháng Hai 1936 nội chiến Tây ban nha và 13 tháng Hai 1962 nội biến ở Pháp (ngày biểu t́nh phản đối bọn thực dân khủng bố OAS). Những sự biến tháng Hai trong bài thơ Schibboleth đă nói đến bóng tối, màu đỏ của máu diễn sóng đôi tại hai thủ đô Vienna ở Áo và Madrid ở Tây ban nha triệt huỷ hai phong trào quần chúng (phong trào xă hội Áo và phong trào cộng hoà Tây ban nha). Biển ngữ No pasarán/Không được qua nhắc đến ở cả hai bài thơ tương tự như khẩu ngữ Schibboleth.
Trong khổ thơ thứ hai, trực tiếp vào h́nh ảnh lăo ông chăn chiên, tên Abadias hiển hiện trên cánh đồng, bầy cừu bên trái, với bầy chó (theo Felstiner, người viết hành trạng của Celan, ông già chăn chiên này là người tị nạn Tây ban nha và là người đầu tiên Celan gặp khi mua trang trại ở vùng Đông Nam Normandie năm 1962); nhân danh Abadias gợi lên h́nh ảnh tiên tri Obadiah trong Cựu Ước, h́nh tượng lưu đày…
Sang khổ thứ ba, lại trực tiếp vào h́nh ảnh con tàu Aurora/Аврóра khởi sự cho Cách mạng tháng Mười Nga ở Petropolis (tên gọi của Mandelstam cho) Saint-Petersburg/Санкт˗Петербург đổi tên thành Petrograd/Петроград rồi thành Leningrad/Ленингад; h́nh ảnh nhân vật Celan nói đến ở đây là thi sĩ Nga Osip Mandelstam/О́сип Мандельшта́м, người bị lưu đày dưới thời Stalin đến Voronezh và chết trong trại tập trung Siberia. Toskana là miền Toscana ở vùng Trung Ư trong mơ ước của Mandelstam v́ ông yêu thích hai nhà thơ Ư Petrarch và Dante.
[429] J. Derrida, Sdt: Chỉ một lần: Cái lễ/cắt da qui đầu chỉ diễn ra một lần.
[430] Derrida, Sdt: Ce qui revient à se marquer comme l’unique fois.
[431] Celan, Atemwende I:
Dein vom Wachen:
Sie setzt
Wundgelesenes über
Bị chú: Derrida trong cuộc nói chuyện với Évelyne Grossman, cũng nhận xét gặp khó khăn khi đọc tiếng Đức của Celan. Hai câu thơ dẫn trên theo Derrida có thể hiểu qua hai bản dịch tiếng Pháp của Jean-Pierre Burgart:
il passé
la plaie lisible
(trong Strette)
và của Jean Launay và Michel Deguy:
il passé
ce qui a été lu jusqu’à blesser, de l’autre côté
(trong Poésie)
[so sánh đối chiếu với hai bản dịch tiếng Anh:
của Lynch và Jankowsky:
it carries across
the wound-read
(trong 65 Poems)
của Joris:
it carries
sore readings over
(trong Breathturn)].
[432] Celan:
Einem, der vor der Tür stand:
Rabbi, knirschte ich, Rabbi
Löw:
Diesem
Beschneide das Wort.
Bài thơ này in trong tập Die Niemandsrose/Bông hồng không của người nào 1963.
Nhan đề ban đầu là “Que sont mes amis devenus?/Các bạn tôi trở thành ǵ?”, Xem: Jessica Draper, Paul Celans “Einem, der vor der Tür stand” im Kontext der Golem Motivik/Bài thơ “Cho một người đứng trước cửa” của Paul Celan liên quan đến chủ đề H́nh nhân/Golem/ גולם 2003.
[433] Câu thơ cuối, tôi để nguyên văn từ Ra -.
Bị chú: Derrida cũng là người Do thái như Celan, như một số những nhà thơ Do thái khác mà Celan thường nhắc. Về lư giải của Derrida, có thể đọc: Michael G. Levine, Spectral Gatherings Derrida, Celan and the Convenant of the word/Tụ họp bóng ma Derrida, Celan và hiệp ước của từ in trong tập san Diacritics, số 38 Xuân Hạ 2008.
[434] Pierre Brunel, Où va la littérature française aujourd’hui? 2002: “le paradoxe de l’incommunicabilité communicable, l’aporie derridienne, ne va pas jusqu’à l’errance du schibboleth.”
(c̣n nữa)
Đặng
Phùng Quân
http://www.gio-o.com/DangPhungQuan.html
© gio-o.com 2013