ĐẶNG PHÙNG QUÂN

Khái luận phê b́nh lư trí văn chương

biên khảo triết học nhiều kỳ

79

Chương III

LƯ LUẬN VĂN CHƯƠNG VÀ PHÊ B̀NH VĂN HỌC 

 

Kỳ 1, Kỳ 2, Kỳ 3, Kỳ 4, Kỳ 5, Kỳ 6, Kỳ 7, Kỳ 8, Kỳ 9, Kỳ 10, Kỳ 11,  Kỳ 12, Kỳ 13, Kỳ 14,  Kỳ 15, Kỳ 16, Kỳ 17, Kỳ 18, Kỳ 19, Kỳ 20, Kỳ 21, Kỳ 22, Kỳ 23, Kỳ 24, Kỳ 25, Kỳ 26,  Kỳ 27,  Kỳ 28, Kỳ 29, Kỳ 30, Kỳ 31, Kỳ 32,  Kỳ 33, Kỳ 34, Kỳ 35, Kỳ 36, Kỳ 37, Kỳ 38, Kỳ 39,  Kỳ 40, Kỳ 41, Kỳ 42, Kỳ 43, Kỳ 44, Kỳ 45, Kỳ 46, Kỳ 47, Kỳ 48, Kỳ 49, Kỳ 50, Kỳ 51, Kỳ 52, Kỳ 53, Kỳ 54, Kỳ 55, Kỳ 56, Kỳ 57, Kỳ 58,  Kỳ 59, Kỳ 60, Kỳ 61, Kỳ 62, Kỳ 63, Kỳ 64,  Kỳ 65, Kỳ 66,  Kỳ 67, Kỳ 68, Kỳ 69, Kỳ 70, Kỳ 71, Kỳ 72, Kỳ 73, Kỳ 74, Kỳ 75, Kỳ 76, Kỳ 77,  Kỳ 78,   Kỳ 79,   

 

Phá thể tiểu thuyết (tiếp theo)

Blanchot nhận ra trong thơ René Char thường xuyên hiện diện từ “inconnu” với vấn nạn: Làm thế nào sống không vô danh trước tự thân?”[208] và hỏi “tại sao có cái yêu sách của quan hệ này với vô danh? trước tiên về mặt ngôn từ, vô danh là một trung tính; trung tính có nghĩa là không-chung/non-général, không-thông/non-générique, như thể không-đặc thù/non-particulier, cho nên không ở trong bất kỳ phạm trù khách thể cũng như chủ thể.

Vô danh bao giờ cũng tư duy ở vị thế trung tính, v́ thế Blanchot khẳng định nó không là khách thể mà cũng không là chủ thể, nghĩa là khi tư duy vô danh, không phải là “cái chưa biết”, đối tượng của tri thức sẽ tới, cũng không phải là cái “tuyệt đối không thể biết”; trong tư duy trung tính, nó không là tiêu cực hay tích cực, không khả thị cũng không bất kiến. Cho nên rốt cuộc ông quan niệm như Char là thơ, ngôn từ và tư tưởng cũng chỉ là một tiếng dầu bề ngoài có vẻ mang danh từ nhị nguyên, nên nếu dùng hai hay nhiều danh từ, tựu chung cũng chỉ là một thể thống nhất không thống nhất. Nhưng không phải Blanchot hay Char, mà Héraclite U minh đă chủ động được nghĩa đôi của từ ngữ, như đă tách rời tán-ngôn và diễn ngôn, đă đề cập ở trên [209]. 

Ở trên [kỳ 78] tôi đă nói đến một tác giả Pháp trong hợp tuyển Blanchot và triết học chú ư tới chân trời nứt đôi [dis-cours và discours] của ngôn từ trung tính, th́ một tác giả Mỹ trong hợp tuyển Cuộc gặp gỡ bí ẩn lại phát hiện sự khác biệt của bản văn Thomas U minh khi ở dạng tiểu thuyết , Blanchot viết “ce Thomas-néant” dụng ngữ mạnh hơn là “ce Thomas néant” ở dạng truyện kể [210] : Nếu sống là quyền năng của phủ định - biến đổi, huỷ triệt, tiêu diệt – th́ từ chối thi hành quyền năng này, sa vào thụ động triệt để, là chết trong đời sống, cái Tôi trở thành “một hư vô toàn hảo”. Sau cái chết của (nhân vật) Anne, không có Anne, Thomas đi từ “nhữ/toi-thức (hiện hữu và sống cùng lúc) đến nhữ-vô thức (thực tại và chết cùng lúc)”, nghĩa là “sống, c̣n chết vô cùng tận hơn là chết”. Hart nhận xét Thomas U minh không chỉ đơn giản vẽ ra kinh nghiệm của phi-kinh nghiệm của một người đă chết đến sống và dường như chết trong đời sống; nó hội tụ vào phi-quan hệ của cặp song sinh, một người đă chết trong đời sống trong khi người kia là “Thomas u minh”. Thuyết thoại tiếp cận với cặp đôi này:

“Chết là hoá thân nguyên thô bên cái vô dụng không thể phân biệt mà tôi kết hợp với cái tên Thomas. Nó có phải là một tưởng tượng, bí ẩn này, sáng tạo ra một từ ngữ h́nh thành một cách quỷ quái để tiêu diệt mọi từ ngữ? Nhưng nếu tôi tiến lên trong chính tôi, gấp rút cần cù tới đỉnh cao sự nghiệp chính xác của tôi, vẫn c̣n kinh qua như một đoan chắc bi thảm, ở giữa Thomas sống động, gần với cái không thể gần của Thomas hư vô này, và bóng dáng tư tưởng của tôi càng chùn lại, tôi càng nhận thức về tôi trong sự rơ ràng hoàn hảo như là vật chủ khả hữu, tự nguyện của Thomas u minh này”[211].

Thomas như vậy không c̣n là danh từ riêng nữa mà là danh từ chung để chỉ cặp đôi: Thomas chết trong khi đang sống là vật chủ của Thomas u minh, cái không thể gần này phụ thuộc vào cái chết mà sống kia; một đằng là hư vô toàn hảo, một đằng không hữu/être mà cũng không vô/néant, nhưng là trung tính, như đă luận đến ở trên.

Trong u minh, hang động, “nhà tư tưởng trầm mặc, ít nói” – phản-Descartes và gần với cổ đại Hy lạp hơn - kể rằng ở sâu trong hang động, xuất hiện cuồng lư và những từ ngữ khó hiểu vang bên tai khi viết lên những ḍng chữ ngọt ngào này: Tôi tư duy, vậy tôi không hiện hữu/Je pense, donc je ne suis pas.

Blanchot tiếp: những chữ này đem lại một quan chiêm sương khoái. Là chủ thể và khách thể của một bức xạ toả ra toàn quyển lực, một mặt trời dùng hết năng lực tạo ra đêm và ngày, không phải bảo đảm cái hiện hữu của ḿnh, song bảo đảm ở trong chính hư vô, mời gọi không hiện hữu để cảm thấy không hiện diện tuyệt vời. Đến đây có thể hiểu tại sao Thomas trở thành Thomas u minh, một loại hiện hữu kết hợp bởi mọi cái loại trừ ra từ hiện hữu, cảm thấy cái nh́n mơ hồ của Thomas u minh, v́ như  Thomas nói “chỉ y hiểu tôi”[212].

Tới đây, người đọc có thể hiểu tại sao có h́nh bóng Thomas U minh, như Heidegger dơi theo lộ tŕnh Heraklit khi hiểu tư tưởng cổ đại khởi đi từ ánh sáng/Lichtung của thế giới.

Trong đoạn thiên sau này của Blanchot cũng viết:

♦ Chính tai hoạ u minh mang ánh sáng. [213]

Thomas xuất hiện trở lại trong tiểu thuyết kế tiếp mang tên Aminadab. Mở đầu bằng một câu b́nh thường: Giữa ban ngày [214]. Khởi cuộc phiêu lưu của Thomas vào một căn nhà trong làng, do cái vẫy tay mời của một người đàn bà [xem kỳ 74 & 75].

Nếu ở tiểu thuyết/truyện kể đầu, dấu hiệu U minh mang một ư nghĩa chỉ thị “cặp đôi” dẫn đến hệ luận “phi hiện hữu” như luận nơi trên, ở tiểu thuyết thứ hai này, Aminadab là kư hiệu đa phức. Nhân vật này được giới thiệu qua lời Dom, người đồng hành kín/partenaire invisible của Thomas, là Aminadab-người giữ cửa, cái tên được nêu lên trong mười mấy trang cuối song không xuất hiện. Aminadab trong tiểu thuyết của Blanchot, như Godot trong kịch của Beckett là người đồng hành không gặp được/partenaire invisible.

Bident đă thử giải mă kư hiệu Aminadab: tên và tiểu thuyết Aminadab mang kư ức của người bạn thân của Blanchot là triết gia Emmanuel Levinas (cũng là tên của một trong những người em Levinas bị Phát xít Đức giết ở Lituanie), và trong Hébreu (tiếng Do thái) עמינדב, mang nghĩa “nhân dân tôi th́ nhân từ” hay “dân du mạc” để chỉ dân tộc Do thái. Aminadab cũng là tên hai nhân vật trong kinh Thánh, một là cha vợ của Aaron, một thuộc ḍng vua David và c̣n thấy trong Thánh ca của Jean de la Croix [215]. Song trước hết, theo Bident, Aminadab là sự gặp gỡ giữa Bataille và Blanchot: không có ǵ cả, chỉ có đêm tối, câu chuyện hoàn tất, hiện hữu của con người đi vào trong đêm linh thể, với điều kiện đầu tiên, không biết là đêm; cái lăng quên, lăng quên thế giới mang theo định mệnh con người, qua cuộc phiêu lưu của Thomas, kinh nghiệm nội ẩn, như Bataille ghi nhận “cuộc phiêu lưu của con người tận cùng như Aminadab”[216].

Câu chuyện bắt đầu: Giữa ban ngày. Thomas đến nay vẫn sống một ḿnh, vui mừng nh́n thấy một người đàn ông giống như tượng gỗ đang thầm lặng quét lối ra vào. Cửa sắt tiệm nâng lên nửa chừng.Thomas khom xuống và nh́n thấy một người đàn bà ở bên trong ngồi trên chiếc giường hầu như choáng hết căn pḥng không có đồ đạc nào khác. Mặt bà quay vào tường song không hoàn toàn khuất: dịu dàng và xúc động, nhưng vẫn tràn ngập niềm thư thái – có vẻ như thế. Thamas đứng thẳng người lên. Chàng chỉ c̣n tiếp tục đi. Nhưng người đàn ông đang quét gọi chàng.

“Vào đi”, ông ta nói, giang cánh tay về phía cửa chỉ chàng lối vào.

Nhưng cuộc phiêu lưu thực sự chỉ từ: Người thiếu nữ, như thể hiểu sự chờ đợi này, đưa bàn tay ra dấu như thể một mời gọi, và lập tức sau đó, nàng khép cửa sổ và căn pḥng lại ch́m vào bóng tối.

Thomas thật bối rối. Liệu chàng có thể xem cử chỉ ấy như một mời gọi thực sự? Đó là dấu hiệu thân t́nh hơn là mời gọi. Cũng có thể là một cách tống tiễn. Chàng c̣n do dự. Khi nh́n sang phía cửa tiệm, chàng nhận ra người quét đường cũng đă đi vào. Điều đó nhắc chàng nhớ dự định đầu tiên. Nhưng chàng nghĩ lúc nào cũng có thời giờ để làm sau, và chàng quyết định băng ngang đường để vào căn nhà.

Vào nhà, khác với K. trong Lâu đài của Kafka chưa bao giờ được vào, dầu cho tới lúc chết, ở đây Thomas không thấy ǵ như chàng tưởng, mà như kẻ mới đến một nơi xa lạ, cố gắng hấp thụ ngôn ngữ chung, như những cư dân trong nhà, song thất bại: không biết làm sao gọi tên người và vật chung quanh, không ngừng t́m hiểu những dấu hiệu (như thể “tự do” nói điều ǵ cũng được, khi người ta bảo tôi có tự do song họ lại xiềng xích tôi?), hay như cô Barbe, người hướng đạo cho chàng la rầy: Anh xử sự như một đứa trẻ con, anh cho quá nhiều nghĩa cho những chữ này, và lơ là với những chữ khác, chẳng hiểu tại sao.

Quả thực, không thích nghi với ngôn ngữ như những cư dân trong nhà, thấy thế giới bao quanh xa lạ, đi lên đi xuống t́m không ra người thiếu nữ ban đầu hay nhiều bí ẩn khác, đến độ Barbe cảnh cáo chàng phải chờ cô, không dược hành động vô ích, không được tự ḿnh t́m kiếm cái ǵ không với tới, cô nói: Có ǵ là khó khăn? Anh chỉ việc ngồi yên trong một góc. Nhưng điều dó có vẻ như quá sức anh.  Người thiếu kiên nhẫn như anh, thích đi theo tôi vào những pḥng để mặc anh chăm chú với những ǵ anh thấy cũng được, và anh mặc kệ tôi đi trong khi anh theo con đường tuỳ ư thích của anh [217] .

Thế giới trong Lâu đài của Kafka hay trong Aminadab của Blanchot không có ǵ là ẩn dụ, như Sartre nghĩ, là v́ ông không nhận thức được thân phận người Do thái dưới chế độ phát xít Đức, hay người dân Đông Âu dưới thời độc tài toàn trị Stalin, để hiểu được chế độ bàn giấy thư lại - giấy tờ, luật lệ, guồng máy, công an mật vụ v.v…- đến những trại tập trung, cải tạo, những gulags, nên chỉ thấy “huyễn hoặc” trong một thứ luận lư lộn ngược/upside-down logic của những xă hội, thế giới thu gọn lại là căn nhà/lâu đài trong tiểu thuyết Blanchot hay Kafka. Liệu con người trong thế giới đó có được hỏi như Thomas: Tôi không phân biệt được rơ ràng là những điều nhận xét về tôi có nhằm cho tôi biết số phận đang chờ đợi tôi hay giúp tôi được bỏ đi [218].

Trong ngôn ngữ văn chương của Blanchot, những từ như “sans/pas” có nghĩa là “không” đă được Derrida phân tích trong Parages [219] và gọi là “ngữ pháp” của Blanchot. Cùng một từ ngữ có thể thay đổi nhiều lần ư nghĩa.

Thomas như ở đầu sách chỉ có một ḿnh/seul đối diện với một thế giới khép kín, là một dấu hiệu trung tính, không quá khứ, không gia đ́nh. Nếu ở tiểu thuyết/truyện kư trước, h́nh bóng song sinh của Thomas là Thomas U minh, ở tiểu thuyết thứ hai này, người đồng hành xiềng xích là Dom, như ư nói với Thomas: tôi chính là một thể khác của anh [220].

   

 

------------------------------

[208] “Comment vivre sans inconnu devant soi?” Vô danh không đứng một ḿnh, nhung bao giờ cũng đi với “l’incơnu équilibrant/vô danh quân b́nh”, “l’inconnu qui creuse/vô danh đào xoi”.

[209] Blanchot dẫn những phân đoạn tư tưởng của Héraclite, như phân đoạn số 32: “L’Un-la-Chose-Sage et Elle seule: elle veut et ne veut pas être dite avec le nom de Zeus”, chỉ ra trung tính đặc thù như “La Chose sage”, “L’Un”, “la Chose commune”, một từ có thể sử dụng số nhiều, như “Logos” v.v…những nhà lư giải Héraclite như Abel Jeannière nhận ra thần linh/divin của Héralite thuộc về trung tính, hay Clémence Ramnoux chỉ ra những ví dụ như “Vie-Mort” kết đôi với “Veille-Sommeil” như ở phân đoạn “Chính cái Chết, những gí chúng ta thấy khi tỉnh, và những ǵ chúng ta thấy khi ngủ, đó là giấc Ngủ” có một chỗ dành cho từ Sống vắng mặt, nhưng từ Chết gọi ra, nên người ta có thể đọc là “Chính Sống-và-Chết mà chúng ta phát hiện khi tỉnh dậy” và lư giải như Ramnoux là thức dậy, chính là khám phá ra sống và chết thiết yếu liên kết, có thể nói sống cái chết và chết cái sống ở trong nhiều phân đoạn, như Bất tử, Khả tử, Khả tử, Bất tử:những người này sống cái chết của những người khác, những người khác chết cái sống của những người này (Immortels, Mortels, Mortels, Immortels: les uns vivant la mort des autres; les autres mourant la vie des uns), hay nói chung: Làm lộn nhào/điên đảo, cái này lấy chỗ của cái kia, cái kia lấy chỗ của cái này (Mis sens dessus dessous, les uns prennent la place des autres, les autres prennent la place des uns).

[210] Kevin Hart: In the roman Blanchot writes “ce Thomas-néant”, a stronger formulation than “ce Thomas néant” in the récit. [Chú thích số 52 trong bài The Neutral Reduction/Giảm trừ trung tính in Clandestine Encounters, Edited by K. Hart 2010].

[211] Blanchot, Thomas l’obscur.

[212]  Sdt: “C’est lui qui me comprend”.

[213] Blanchot, L’Écriture du désastre:

♦ C’est le désastre obscur qui porte la lumière.

Đoạn thiên trên là câu cuối cùng trong bài viết Discours sur la patience xuất hiện trên tạp chí Le Nouveau Commerce số 30-31, 1975 in lại trong sách dẫn trên, và bài viết in lại trong Blanchot et la philosophie 2010.

[214] Blanchot, Aminadab: Il faisait grand jour.

[215] “Hay tôi từng nhận thấy, linh hồn tôi làm cho tôi giống như những chiến xa của Aminadab” (Canticles 6:12) dẫn theo Christopher A. Strathman (trong bài Aminadab, Quest for the Origin of the Work of Art  in Hợp tuyển Clandestine Encounters  nói trên), và Strathman cũng dẫn Kevin Hart đọc và lư giải trong thuật ngữ thần học: “Ở câu thơ này Aminadab…được xem như thay cho Chúa và phản Chúa…Aminadab  không và không thể xuất hiện trong hôn phối thần bí. Điều mà chúng ta thấy trong những cảnh cuối ở tiểu thuyết của Blanchot không phải là một hôn nhân toàn hảo của Cô dâu và Chú rể tâm linh nhưng là kinh nghiệm nội ẩn” [Kevin Hart, The Dark Gaze: Maurice Blanchot and the Sacred 2004]. Như vậy theo Hart, Blanchot điều động con đường giữa lên cao và xuống thấp, giữa nhất thể và phức thể, giữa đồng nhất và dị biệt, giữa thân quen và xa lạ, hay ít ra giữa Do thái-Ki tô và ngoại đạo-vô thấn. Strathman nhận xét kinh nghiệm nội ẩn như Georges Bataille mô tả là một kinh nghiệm về hư vô.

[216] G. Bataille, Le Coupable 1944: “l’odyssée humaine finissant comme Aminadab”; trong một kiệt quệ của giác tỉnh, sáng suốt: “ce qui tombe est la nuit d’Aminadab/cái rơi xuống là đêm của Aminadab”.

[217] M. Blanchot, Aminadab: Était-ce si difficile? Vous n’aviez qu’à rester dans votre coin. Mais cela a probablement dépassé vos forces. Impatient comme vous l’êtes, vous avez préféré me suivre dans les chambres au risque de vous laisser absorber par ce que vous voyiez, et vous m’avez laissé partir en poursuivant votre chemin à votre guise.[chữ “impatient” nhấn mạnh theo tôi-ĐPQ]

[218]  Sdt: “Je ne distingue pas toujours très clairement si vos remarques sont destinées à m’apprendre le sort qui m’attend ou à m’aider à m’en détourner”.

[219] Jacques Derrida, Parages 1986 : từ  này dùng ở số nhiều, có nghĩa như miền, xứ, miền biển/espace maritime.

[220] Blanchot, Aminadab: J’étais comme un autre vous-mêmes.

 

(c̣n nữa)

  

Đặng Phùng Quân
 

http://www.gio-o.com/DangPhungQuan.html

 

© gio-o.com 2013