ĐẶNG PHÙNG QUÂN

Khái luận phê bình lý trí văn chương

biên khảo triết học nhiều kỳ

10

Dẫn nhập

Kỳ 1, Kỳ 2, Kỳ 3, Kỳ 4, Kỳ 5, Kỳ 6, Kỳ 7, Kỳ 8, Kỳ 9, Kỳ 10,

      

9. Khoa học văn chương (tiếp theo)

Mikhail Bakhtin trong giai đoạn đầu (1918-1925) những năm ở Nevel và Vitebsk đã viết nhiều biên khảo thấm nhuần tư tưởng triết học tân-Kant; từ ngữ Architektonik lấy từ khái niệm xây dựng hệ thống của Kant là nguyên mẫu Bakhtin sử dụng nhằm xây dựng một quan niệm mới về mặt ngữ học, một khoa học văn chương, trong tranh biện với tư trào Hình thái luận đương đại. Bản văn Vấn đề nội dung, chất liệu và hình thái trong nghệ thuật sáng tạo ngôn từ [115] được viết ra khoảng trước năm 1924, vào thời kỳ có thể gọi là triết lý của ông, song mục tiêu chính là đưa ra ý niệm 'chất liệu' nhằm phê phán ý niệm 'hình thái' của những nhà hình thái luận.

Trước khi xét đến nội dung bản văn này trong khuôn khổ luận về một quan điểm khoa học văn chương vào đầu thế kỷ 20 từ một góc nhìn khác với quan điểm của Dilthey nói đến ở trên, ta phải định vị Bakhtin trong cuộc tranh biện này. Đây là thời sau cách mạng 1917, đảng bôn-sê-vích đã nắm chính quyền song chưa xẩy ra tình trạng văn nghệ chỉ đạo trấn áp, tuy nhiên Bakhtin cũng đã bị đưa đi an trí vào năm 1929. Cho nên tôi sẽ nói riêng về bản văn này và không tham chiếu một bản văn khác đứng chung tên hai tác giả Bakhtin và Medvedev (1891-1938) nhan đề Phương pháp hình thức trong học thuật văn chương [116].

Bakhtin mở đầu trình bày mục đích luận văn bàn về 'vấn đề nội dung' này nhằm đưa ra một phân tích những khái niệm cơ bản và những vấn đề sáng tạo học/thi pháp về mặt phương pháp luận trên cơ sở mỹ học tổng quát có hệ thống. Ông xác định khởi điểm nghiên cứu phê phán từ những công trình sáng tạo học/thi pháp với những đề án cơ bản của những học giả Nga. Ý định này chỉ ra rõ ràng hướng nghiên cứu nhằm tranh biện trên ba vấn đề: nội dung, chất liệu, hình thái, nên giới hạn vào việc đánh giá khái niệm và đề xuất, mà không xét đến về mặt tất định lịch sử của những trào lưu và công trình đặc thù.

Những trào lưu phát triển rầm rộ vào thời kỳ này như hình thái luận, trường phái tượng trưng , vị lai và xã hội học  trong lĩnh vực nghiên cứu nghệ thuật sáng tạo. Điểm nổi bật ở thời kỳ này so với giai đoạn trước theo Bakhtin là đã nhận ra ưu thế đặc biệt của tư tưởng khoa học trong lĩnh vực nghiên cứu nghệ thuật. Ông nhận xét: trong nỗ lực xây dựng một khoa học với bất cứ giá nào cho mau chóng, thường lại dẫn đến tình trạng hạ thấp mức độ của những vấn đề, làm nghèo nàn việc nghiên cứu đối tượng, lại còn thay thế không chính đáng đối tượng này [nghĩa là sáng tạo nghệ thuật] bằng một điều nào đó hoàn toàn khác. Theo Bakhtin, xây dựng một khoa học liên quan đến một lĩnh vực đặc biệt của sáng tạo văn hóa, trong khi muốn duy trì mọi cái phức hợp, toàn diện và khu biệt của đối tượng đặt dưới nghiên cứu là một công việc khó cực kỳ. Cho nên mặc dầu có nhiều công trình nghiên cứu sáng tạo học phong phú và có ý nghĩa [trong những năm chung quanh thời đại của ông], song không thể chấp nhận được vị thế khoa học nói chung của phần lớn những công trình này là hoàn toàn đúng và tốt đẹp. Đối tượng ông tranh biện ở đây là những đại biểu của trường phái mệnh danh là có phương pháp hình thái luận.

Trường phái hình thái luận Bakhtin nói đến ở đây là nhóm Opojaz [tên viết tắt của  Hội nghiên cứu ngôn ngữ sáng tạo/Obščestvo izučenija poėtičeskogo jazyka] với Viktor Shklovsky (1893-1984), Boris Eichenbaum   (1886-1959) và những thành viên của Câu lạc bộ ngữ học Mạc tư khoa [thành lập vào Đông 1914-15]  như Roman Jakobson (1896-1982); Opojaz thành lập năm 1917 hợp tác mật thiết với Câu lạc bộ ngữ học. Những nghiên cứu của Opojaz xuất bản tập thể trong những năm này về lý luận ngôn ngữ sang tạo. Tranh luận của Bakhtin quả thực nhằm đối thoại với những nhà hình thái luận này; tuy nhiên về mặt lịch sử, phải đợi tới thập niên 70, giới nghiên cứu mới tiếp cận được những tranh biện này [117].

Sự tương cận giữa Bakhtin với hình thái luận Nga vẫn còn là vấn đề tranh cãi giữa những học giả nghiên cứu hai trường phái này. Tuy nhiên điểm đáng lưu ý là quan điểm của Bakhtin chắc chắn ở giai đoạn này không chịu ảnh hưởng xu hướng Mác-xít, và cũng không đồng điệu với thái độ phê phán của chủ nghĩa Zhdanov (xem chú thích 117). Ông phê phán công trình hình thái luận về sáng tạo học khi luận vể tính cách khoa học là sản phẩm của mối quan hệ bất xác về mặt phương pháp giữa sáng tạo học với mỹ học nói chung. Nó chỉ có một thái độ tiêu cực với mỹ học tổng quát. Khuyết điểm của trường phái này là quan niệm việc xây dựng một hệ thống phán đoán khoa học về một nghệ thuật đặc thù, như văn học thì độc lập với những vấn nạn liên hệ tới bản chất của nghệ thuật nói chung.

Theo Bakhtin, xây dựng khoa học của một nghệ thuật  đặc thù độc lập với tri thức và xác định hệ thống của bản tính khu biệt của mỹ học trong sự thống nhất văn hóa của con người. Tuy nhiên, ông xác định khái niệm  hệ thống của mỹ học chỉ có thể thấy nơi đối tượng và trong quan hệ hỗ tương với những lĩnh vực khác trong thống nhất của văn hóa nhân loại.

Sáng tạo học/thi pháp được xác định theo Bakhtin phải là một mỹ học của sáng tạo nghệ thuật ngôn từ.  Khuyết điểm của sáng tạo học Nga trong thời đại ông là do không có một định hướng mỹ học triết học, tổng quát có hệ thống cho sự thống nhất của nghệ thuật , do việc đơn giản hóa cùng cực nhiệm vụ khoa học đến độ hời hợt và bất toàn. Ngay ngữ học, một bộ môn phụ thuộc cần thiết cho sáng tạo học, song lại giữ một vị trí không thích đáng.

Sự sai lầm của những đối tượng Bakhtin phê phán là do không nắm vững ý nghĩa  của chất liệu trong sáng tạo nghệ thuật. Ưu thế của chất liệu  trong sáng tạo nghệ thuật rút ra một xác định: nếu không có nghệ thuật/văn chương, thì chỉ có những nghệ thuật đặc thù. Tại sao vậy? Quan niệm này quả thực xác quyết ưu thế của chất liệu minh thi chất liệu chia cách những nghệ thuật và nếu có thủ đắc sự tiến lên về mặt phương pháp trong tinh thần nhà mỹ học, nó cũng tách rời những nghệ thuật ra; ý niệm tách những nghệ thuật riêng ra với nhau đã được xác định trong luận văn Tác giả và nhân vật trong hoạt động mỹ học [118]: định nghĩa tiêu cực của hình thức, như 'tách rời', song ở đây là từ then chốt về mặt mỹ học của Bakhtin, vì trong phần thứ tư về vấn đề hình thái luận văn Vấn đề nội dung dẫn trên, khi hỏi: làm thế nào hình thái có thể là một biểu hiện thông qua từ quan hệ chủ quan tích cực với nội dung trở thành một hình thái sáng tạo hoàn tất nội dung? Cái gì tạo ra hoạt động ngôn từ chỉ sản sinh và tổ chức được công trình chất liệu, trong thực tế không thể vượt ra ngoài giới hạn của công trình chất liệu? Bakhtin khẳng định phải nói đến chức năng của tách rời/tháo gỡ , vốn là chức năng sơ bản của hình thái trong quan hệ với nội dung. Tách rời/tháo gỡ không liên hệ tới chất liệu nhưng tới ý nghĩa, nội dung, thoát ra khỏi một vài những quan hệ tất yếu với sự thống nhất của bản tính và thống nhất của sự biến đạo lý của hữu thể. Cái gọi là giả tưởng trong nghệ thuật chỉ là một biểu hiện tích cực của tách rời, nghĩa là một đối tượng được tách ra cũng là một đối tượng ảo; còn đối với thời khoảng tiêu cực, giả tưởng và tách rời trùng hợp với nhau. Trong giả tưởng, người ta cảm thấy tích cực và chính xác  trong việc dựng ra đối tượng, cảm thấy tự do  cho sự biến một hình thái và hoàn tất nó mà không gặp trở ngại nào.

Chính khi phân tích ý niệm tách rời/tháo gỡ này, Bakhtin đã dùng để phê phán khái niệm lạ lẫm/ostranenie của nhóm hình thái luận Nga. Theo ông cái gọi là lạ lẫm về cơ bản là chức năng của tách rời không được diễn đạt rõ ràng lắm về mặt phương pháp cũng như tham chiếu không đúng đắn  trong hầu hết trường hợp tới chất liệu: cái lạ lẫm là từ ngữ nhằm phá hủy vị thế quen thuộc trong những dẫy ngữ nghĩa học. Tách rời chính là điều kiện tiêu cực cho hình thái cá nhân, chủ quan, giúp cho người sang tạo/tác giả trở thành một thời khoảng cấu tạo của hình thái; tách rời là hành động chiếm phần kiểm sát của tác giả.

Mặt khác của tách rời làm nổi bật ý nghĩa của chất liệu và tổ chức phối hợp của nó, chất liệu như vậy trở thành điều kiện  vì khi dùng chất liệu, tác giả đang dùng những giá trị của thực tại được tách ra, vì thế đã vượt khỏi chất liệu tự nội tại mà vẫn không ra ngoài giới hạn. Chữ nghĩa, cách nói không cần gì thực ngoài giới hạn; qua sức mạnh của nó, chữ nghĩa hoán chuyển hình thái hoàn tất vào nội dung. Lấy ví dụ như một yêu cầu trong thơ trữ tình bắt đầu tự túc trong chính nó mà không cần mãn ý (vì đã vừa lòng với chính hình thái biểu hiện của nó), một cầu nguyện không cần Thượng đế phải nghe lời cầu này, một khiếu nại không cần giúp đỡ, một hối hận không cần tha thứ, v.v.. Chỉ sử dụng chất liệu, hình thái mang bất kỳ sự biến nào và áp lực đạo đức tói chỗ hoàn tất trọn vẹn. Với trợ giúp của riêng chất liệu, tác giả đã chiếm một vị trí sáng tạo, sản xuất đối với nội dung, có nghĩa là với  những giá trị tri thức và đạo đức. Tác giả vào trong sự biến tách ra và trở thành kẻ sáng tạo trong nó mà không cần trở thành một kẻ tham dự. Như vậy, tách rời tạo chữ, cách nói và chất liệu nói chung trở thành sáng tạo về mặt hình thức.

Khái niệm 'tách rời' đã được triết gia Đức Jonas Cohn (1869-1947) xác định trong Mỹ học tổng quát [119]: 'giá trị thẩm mỹ thì thuần túy sâu sắc, đối tượng tương ứng với nó là một đối tượng hiện diện ở đó như một tổng thể tự chế, toàn diện. Do đó người ta có thể nói, sự tách rời đối tượng thẩm mỹ là một khái niệm tương ứng của sức mạnh thuần túy của giá trị thẩm mỹ,..Nghệ thuật tạo ra một sự tách rời do sự kiện đơn giản vì nó là nghệ thuật..Cho nên, những bức tượng có thể không màu sắc hay ít ra cũng không có màu một cách tự nhiên. Vần điệu trong thơ và văn xuôi cao nhã cũng sinh ra một hiệu quả tương tự'. Người ta có thể tìm thấy khái niệm cơ bản này ở nhiều tác giả mỹ học khác, như Hugo Muensterberg, Richard Hamann.

Khái niệm tách rời/tháo gỡ ở Bakhtin trình bày nơi trên tương tự như khái niệm 'hủy tạo' nơi Derrida, mặc dầu không có quan hệ ảnh hưởng. Tương ứng với khái niệm 'tách rời' trong ngôn ngữ mỹ học Bakhtin là khái niệm 'quá chuyển/vnenaxodimost' [120].

Bản văn Vấn đề nội dung, chất liệu và hình thái trong nghệ thuật sáng tạo ngôn từ của ông thực sự để đáp ứng những điều đã viết trong tiểu luận Nghệ thuật và chịu trách nhiệm : 'Nghệ thuật và đời sống không phải là một, song phải trở nên thống nhất trong tôi, trong thống nhất đáp ứng trách nhiệm của tôi'. Mối liên hệ này biểu tỏ nhiệm vụ của nghệ thuật đối với đời sống, cũng như ngược lại, nhiệm vụ của đời sống đối với nghệ thuật - ở đâu?  Chính là trong lĩnh vực mỹ học.

 Thế giới con người có ba mối quan hệ: hoạt động nhận thức, hoạt động đạo đức và hoạt động thẩm mỹ; về nhận thức, không có  hành vi hay công trình phân cách, song về mặt đạo đức có xung đột, dường như chỉ có những giá trị cá thể, đặc thù; mỹ học chính là hoạt động liên kết chúng, tạo môt 'sự thống nhất trực quan cụ thể' nhằm thông giao giữa hai thế giới nói trên, song đòi hỏi một khoa học văn chương, vì như Bakhtin chỉ ra: sự đối lập thông thường của thực tại với nghệ thuật, hay đời sống với nghệ thuật cũng như nỗ lực tìm ra mối liên kết cơ bản cho chúng phải được chứng thực tuyệt đối, song cần một định thức khoa học minh nhiên. Chính trong yêu cầu khoa học văn chương mà những phê phán của Bakhtin có giá trị thực tiễn trong tranh biện với hình thái luận.

-----------------

[115] Problema soderzhaniia, materiala, i formy v slovesnom khudozhestvennom tvorchestve (in trong Voprosy literatury i estetiki: Issledovaniia raznykh let 1975. Tiểu luận này được Kenneth Brostrom dịch sang Anh ngữ, in trong Art and Answerability [Iskusstvo i otvetstvennost/nghệ thuật và chịu trách nhiệm], edited by Michael Holquist and Vadim Liapunov 1990.

[116] Formal'nyi metod v literaturovedenii (Kriticheskoe vvedenie v sotsiologicheskuiu poetiku) 1928. Về phía những nhà hình thái luận, Boris Eichenbaum đã viết thiên tiểu luận Lý luận về phương pháp hình thức/Teoriya 'formalnovo metoda' 1926 quan niệm thiết lập một khoa học văn chương đặc thù và thực sự xây dựng trên cơ sở phương pháp hình thức.

[117] Roman Jakobson đã ghi nhận : những năm 20 [của thế kỷ XX] đã cho một chí lực hùng hậu với những nghiên cứu sáng tạo học/thi pháp Nga. Nghiên cứu, giảng dạy, danh mục những tác giả, xuất bản, học viện chuyên về nghiên cứu thơ và những nghệ thuật khác, những giáo trình  và hội thảo gia tăng không ngừng. Khủng hoảng của phát triển dường như tự tại. Sự phát triển liên tục sáng tạo học đòi hỏi một bước nhẩy vọt mới của khoa ngữ học tổng quát vẫn còn trong tình trạng phôi thai. Song cấm chế nhất thời lại biến thành một trạng thái hôn thụy lâu dài.

Cấm lệnh mà Jakobson ám chỉ chính sách văn hoá văn nghê trong chế độ cộng sản, cực điểm vào thời Stalin với chỉ đạo của Zhdanov. Trong Mấy tiêu chí để tiếp cận lý luận văn học (in lại trong Tẩu khúc văn chương/triết lý 2004) tôi cũng nhắc đến lời nhà thơ Semyón Isaákovich. Kirsanov (1906-1972) dũng cảm nói lên thực trạng ấy trong đại hội nhà văn Xô viết lần thứ nhất tại Moskva năm 1934: Người ta không thể đụng đến những vấn đề về hình thái thi pháp, ẩn dụ, vần thơ hay hình dung từ mà không khiến đáp lại tức thời: hãy câu lưu bọn hình thái chủ nghĩa! Ai cũng có thể bị đe dọa kết vào tội hình thái chủ nghĩa. Từ này trở thành một bao đấm để những nhà phê bình thử sức. Mọi dẫn chứng những 'từ hoa thanh âm' hay 'ngữ nghĩa' đều tự động đi kèm với lời cự tuyệt: đả bọn hình thái! Nhiều nhà phê bình tàn bạo còn lấy khẩu lệnh này thành tiếng sất sá để bảo vệ sự ngu dốt của họ trong lĩnh vực thực hành và lý luận nghệ thuật sáng tạo, và để lột da đầu những ai dám làm rối cái xóm ngu dân của họ.

Cái xóm ngu dân là những quan thần phê bình kiểu Zhdanov thời bấy giờ.

[118] Avtor i geroi v esteticheskoi deiatel'nosti  viết trong thập niên 20 song chỉ được xuất bản vào năm 1979 trong tập Estetika slovesnogo tvorchestva do Sergei G. Bocharov biên tập.

[119] Allgemeine Ästhetik 1901.

[120] Trong luận văn Tác giả và nhân vật trong hoạt động mỹ học nói trên. Bản dịch sang tiếng Anh là transgredient (bắt nguồn từ Latinh: transgredi, transgressus). Vadim Liapunov nhận xét trong ngôn ngữ của J. Cohn, từ này nhằm đối lập với 'tự tại'. Michael Holquist dùng từ mới là 'transgradient'. Tham khảo: Reviving the Living: Meaning Making in living Systems, 2008 của Yair Neuman (chương 17: Transgradience: A Lesson from Bakhtin).

Lấy một ví dụ dễ hiểu như làm thế nào tôi tri giác được sự đau khổ của người khác. Tôi thấy họ đau nhưng không cảm được nó, song tôi có thể vào trong không gian tri thức của họ về mặt khái niệm và tri giác qua mắt họ để thấy biểu diện thế giới được tô điểm ở mọi mặt qua cảm giác đau khổ. Khi người đau khổ nhìn cây cối quanh ta , cảm thấy cây cối đau khổ, khi nhìn người khác cũng nhìn họ qua lăng kính đau đớn của họ. Như câu thơ trong Truyện Kiều : Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Nhưng khi tôi trở lại thời gian và không gian của chính nơi chốn hiện hữu của tôi, cộng với nhận thức thu nhận ở thế giới của kẻ đau khổ, tôi có thể thêm vào trong danh mục sự vật họ nhìn sự vật mà không thể thấy từ hoàn cảnh của họ và chỉ có thể tri giác từ hoàn cảnh của tôi, như cái nhăn mặt của họ chẳng hạn. Hơn nữa tôi nhìn mọi sự này trong khung cảnh cây cối họ tri giác qua nỗi đau của họ, song những cây cối này có bộ diện khác hẳn từ vị thế của tôi. Vị thế này Bakhtin gọi nó là 'quá chuyển', nghĩa là vị thế của nhân vật ở vị thế cao hơn trong quan hệ này: nhà văn, tác giả ở bình diện cao hơn những nhân vật của mình, có thể nhìn thấy trong hiện hữu toàn diện, ý nghĩa sâu xa nhất nhân vật của ông.

(còn tiếp)

Đặng Phùng Quân

http://www.gio-o.com/DangPhungQuan.html

 

© gio-o.com 2011