ĐẶNG PHÙNG QUÂN

Khái luận phê b́nh lư trí văn chương

biên khảo triết học nhiều kỳ

8

Dẫn nhập

Kỳ 1, Kỳ 2, Kỳ 3, Kỳ 4, Kỳ 5, Kỳ 6, Kỳ 7, Kỳ 8,

 

8. Ư thức văn chương

Nhập thế hữu văn chương.. .Câu thơ quen thuộc của Cao bá Quát không chỉ giới hạn ư nghĩa trong trường văn trận bút của nho sĩ dưới thời đại quân chủ, song để xác định hiện hữu của văn chương trong quan hệ thế giới và đời sống. Cũng như ư thức và ngôn ngữ, những toan tính đi t́m nguồn gốc của văn chương dẫu hấp dẫn và đầy thử thách nhưng chỉ dẫn đến thất bại, tuy nhiên, đóng góp vào công tŕnh nghiên cứu của con người, mỗi ngày một phong phú. Văn chương tồn tại xây dựng trên những vận động sáng tạo của con người, biểu hiện quyền năng tinh thần trong thế giới sống. Nhưng, thế giới nào?

Sáng tạo văn chương gắn liền với mô phỏng. Hiểu theo nghĩa từ hy lạp μίμησις là nguyên lư của  mọi nghệ thuật từ thời cổ đại [95] cho đến giữa thế kỷ 17;  nhà triết học lớn và là người phê b́nh nghiêm khắc đối với sáng tạo thơ như Platon nh́n mô phỏng dưới một góc cạnh khác khi quan niệm mô phỏng trụ trong những thói quen và trở nên bản tính thứ hai ở con người. Trong Πολιτεια/Politeia Platon đă phân tích sự khác biệt giữa sáng tạo sự vật thật với mô phỏng sự vật: những nhà thơ và những người làm ra những ngụ ngôn [những người viết văn xuôi] phạm phải những sai lầm to lớn nhấr về vấn đề con người, khi họ cho rằng đa số con người bất chính lại sung sướng, trong khi những người công chính lại khốn khổ (392b); con người bề ngoài do sự khéo léo đó có khả năng dùng mọi h́nh thức và mô phỏng đến đô thị chúng ta, mang theo những bài thơ mà y muốn phô diễn, th́ dầu chúng ta có hạ ḿnh tôn thờ y như một con người thần thánh, phi thường và khả ái, song cũng phải nói với y là không chứa chấp loại người đó trong đô thị chúng ta và không thể để loại người đó trong đô thị chúng ta (398a); phải có quy định không thừa nhận trong bất kỳ hoàn cảnh nào loại thơ mô phỏng, v́ những công tŕnh thuộc loại này làm bại hoại tinh thần người nghe là những người không có thuốc giải độc, nghĩa là nhận thức được những ǵ là thực. [Đối những nhà thơ lớn cổ đại Hy lạp như Hesiode, Homer, Platon khẳng định dầu ông có quư mến, kính trọng ngay từ thuở niên thiếu song cũng như những thi sĩ bị kịch khác, ông cũng phải nói ra sự thực này, v́ 'không thể vinh danh một con người mà dẫm lên trên chân lư' [96](595c).]

Quan niệm mô phỏng về mặt văn chương được xác định trong tác phẩm Περί ποιητικής/Luận về thi pháp của Aristote: nghệ thuật mô phỏng thiên nhiên [97]- khu biệt giữa Platon và Aristote ở đây chỉ ra xung đột tranh biện giữa hai xu hướng duy tâm và duy thực [thật sự chỉ mới có khái niệm này từ thế kỷ 17] một đằng thế giới thực của con người là một lặp lại của nguyên mẫu lư tưởng, nghĩa là một thế giới mô phỏng, một đằng thế giới của thực tại, thế giới hành động thể hiện ba đối tượng thực của mô phỏng là έθη (những phẩm chất đạo đức), πάθη (những cảm tính), và πράξεις (những tác động nội tại). Sự khác biệt này biểu hiện triết học thiên nhiên nơi Platon và Aristote qua phê phán của Aristote là Platon đă dẫm bước sai lầm theo Parménide khi lẫn lộn tiềm thể với vô hữu, cơ bản tự quan niệm kinh nghiệm đối với Platon chỉ đóng vai tṛ thứ yếu, trái lại theo Aristote, kinh nghiệm là chủ chốt trong việc khám phá ra những nguyên lư. Những triết gia thời khai nguyên Hy lạp quan niệm thiên nhiên là bản thể thuộc về vật chất, khả xúc là nguyên nhân thứ nhất của mọi hiện tượng trời đất, trái lại từ Platon thiên nhiên là linh hồn, mô thức nội tại duy nhất có trước và diều khiển thế giới khả xúc. Aristote chấp nhận một phần chân lư của mỗi quan niệm trên khi xác định 'thiên nhiên là một nguyên lư và là nguyên nhân của chuyển động và ngưng nghỉ của mọi sự vật, hiện hữu tiên khởi tự bản chất, không phải phụ thuộc vào tùy thể' [98]. Cho nên, lư luận của Aristote phản ảnh thực tiễn sáng tạo thơ văn, âm nhạc, nghệ thuật cổ đại Hy lạp, xem ngoại giới chỉ như sân chơi phía sau của hành động [để giải thích cụ thể khái niệm nêu trên trong Lư học/Physica, Aristote lấy một ví dụ dễ hiểu: 'chẳng hạn một người là thầy thuốc tất tự chữa bệnh cho chính ḿnh, tuy nhiên không phải v́ ông là bệnh nhân  mà ông sở hữu thuật y học; chỉ đơn thuần xẩy ra là cùng một người vừa là thầy thuốc vừa là bệnh nhân, đó là lư do tại sao những tùy thể này không luôn luôn có cùng với nhau, điều đó áp dụng với mọi sản phẩm con người tạo ra, không sự vật nào tự nó có nguồn từ chính sáng tạo của nó.] Nguồn nguyên ủy chung của mọi nghệ thuật có thể nói từ đời sống con người. Mở đầu tác phẩm Luận về Sáng tạo thi pháp/Peri poietikes [99] Aristote xác định công tŕnh t́m hiểu này không những chỉ nhằm t́m hiểu nghệ thuật nói chung, song t́m hiểu mọi loại cũng như mọi khả năng nghệ thuật, cấu trúc t́nh tiết tạo nên bài thơ, bản văn, số lượng và bản tính những thành phần khác nhau cấu tạo ra tác phẩm như sử thi, bi kịch, hài kịch, tụng ca, âm nhạc đàn sáo trong mọi h́nh thái đều là những phương thức mô phỏng trong quan niệm khái quát của mô phỏng, tuy nhiên khác nhau ở phương tiện (như màu sắc, h́nh thức), những đối tượng khác nhau và lối mô phỏng (1447a).

Ư nghĩa của mô phỏng th́ đa dạng: tác phẩm nghệ thuật có thể giống/ όμοίωμα hay sao lại nguyên bản, không phải là một biểu tượng/ σημείον của nó (kư hiệu hay tượng trưng cơ bản không giống với sự vật được biểu thị; những từ nói ra là tượng trưng của t́nh trạng tinh thần c̣n những từ viết ra là tượng trưng cho những từ nói ra; mối liên lạc giữa chúng mang tính quy ước); mặt khác những ấn tượng tinh thần không là kư hiệu hay tượng trưng mà là bản sao của thực tại bên ngoài, going như chính sự vật, như h́nh tượng/phantasma hay eikon; tác phẩm nghệ thuật sao lại nguyên bản, không phải tự nội nhưng biểu hiện ra với những giác quan, không phải vớI lư trừu tượng nhưng với quan năng cảm xúc, những ảo tượng, thế giới nghệ thuật không phải ỏ tư tưởng thuần túy, nh́n chân lư ở những biêu hiện cụ thể, không phải ư niệm trừu tượng. Cho nên Aristote nhận xét: nhà thơ ưa thích 'những bất khả cái nhiên/có thể xảy ra hơn là những khả hữu không thể xảy ra'(1460a). Khi nói đến chức năng của nhà thơ, Ariste xác định mô tả không phải những sự đă xảy ra, như một loại sự phải xảy ra, khác biệt giữa nhà thơ và nhà viết sử ở chỗ đó, cho nên ông đánh giá văn chương là nghệ thuật mô phỏng ở h́nh thái cao nhất là cái ǵ có tính triết lư hơn và cao hơn sử, v́ nhằm biểu tỏ cái phổ quát/τά καθόλον (1451b), nghĩa là biểu hiện yếu tố phổ biến trong đời sống con người. Mô phỏng là một hành vi sáng tạo, theo một ư niệm thực/είδος. Tranh biện với quan niệm phủ bác thi ca văn chương là không thực/ ούκ άληθή , bất khả/ άδύνατα Aristote xác định văn chương không thực, song ở một thực tại cao hơn/ άλλά βέλτιον , lấy lại lời Sophocle nói 'những sự như chúng phải là/ ώς δεί, không phải cái đang có' (1460b), nghĩa là cái chuyển biến/sinh thành hơn là cái hiện hữu.

Khu biệt giữa Platon về văn chương (xem nơi trên) với Aristote tương phản ở ngay quan niệm về giả tượng, như  Platon gọi những người như Homère, Hésiode là nói những điều dối trá/ ψεύδεσθαι trong khi Aristote viết như Homère dạy cho những nhà thơ khác cách nói những điều dối một cách tài t́nh [100], nghĩa là sử dụng vơng luận/ παραλογισμός/paralogisme. Cái bất khả của văn chương trong lư luận Aristote thể hiện khả hữu của văn chương, nghệ thuật chân thực của giả tưởng, như nhiều quan niệm hiện đại.

Có thể nói chân lư của văn chương về bản chất khác với chân lư của sự kiện. Hành trạng của Goethe thể hiện trong tự truyện của ông, có nhan đề Dichtung und Wahrheit (là tiểu đề trong Italienische Reise/Hành tŕnh qua Ư) như nhà thơ giải thích dung đến một h́nh thức giả tưởng: V́ nó chính là nỗ lực đúng đắn nhất của tôi để miêu tả sinh động và diễn đạt có thể tốt nhất chân lư sơ đẳng và thực, như tôi có thể thấy, đă hướng dẫn đời sống của tôi. Tuy nhiên, nếu về những năm sau này, không thể làm điều đó mà không dùng tới hồi ức, và như thế là phải nại tớI quan năng tri tưởng, và nếu cứ bắt buộc làm măi như thế, có thể nói, phải sử dụng khả năng văn chương, rơ rang là rốt cuộc  sẽ là những kết quả mục đích hơn là những sự biến cá nhân xảy ra đă lâu được tâm trí gọi tới và khoa đại... Tất cả những sự vật đó thuộc về nhà thuyết thoại mà tôi gộp vào dưới từ Dichtung ngơ hầu có thể dùng cho những mục đích của tôi cái chân lư có trong tâm trí. 

Quế đường Lê Quí Đôn (1724-1784) trong Văn nghệ loại thuộc bộ Toàn thư Vân đài loại ngữ [101] xác định 'văn chương là gốc lớn của sự lập thân, là việc lớn của sự kinh thế', dẫn lờI Chu Hy 'trong bốn điều văn, hạnh, trung, tín, văn đứng đầu.. . lấy lễ tất phải biết rộng Văn trước' để suy ra văn là việc gốc không phải việc ngọn. Ông phê phán người đời cho văn chương là ngọn, ví như cành lá, chỉ v́ không hiểu được cái nguyên lư trên đây.

Về thi pháp, ông dẫn cách thức làm thơ theo Thích Hiệu Nhiên có bốn điều không nên/tứ bất, bốn điểm sâu sắc/tứ thâm, bốn điều phải bỏ/nhị phế, bốn điều phải tránh/tứ ly, sáu cái mê lầm/lục mê, sáu điều rất nên/lục chí và bảy đức tính như lư lẽ của sự vật, cao siêu cổ kính, đẹp trang nhă, phong lưu, có tinh than, chất phác, đúng mực, Tư Không Đồ c̣n liệt kê hai mươi bốn phẩm chat của thơ, Hứa Ngạn Chu phân chia năm phép (thể chế, cách lực, khí tượng, hứng thú, âm tiết.

Tuy nhiên, Lê Quí Đôn nhận xét: bàn về thơ đến thế tưởng không c̣n sót ǵ nhữa, song ông xét lại trong quan niệm 'thơ phát khởi tự long người ra'. Như thơ trong Kinh Thi của ngườI b́nh dân mà có những bài văn gia đờI sau không theo kịp v́ nó chân thật. Khin phân tích ba điểm chính 't́nh cảm, cảnh động vào ư, dựa cổ chứng kim thu hút tinh thần', theo ông, c̣n thể thức, ư tưởng, âm tiết, cách điệu đều là phụ thuộc, bsàn them thôi. Nguyên lư ấy diễn ra: 't́nh là ngườI, cảnh là trờI, sự là hợp lẽ thông suốt cả trờI đất' phân tích cho đến cùng, giống như Goethe qua niệm về văn chương và chân lư nói đến ở trên.

Ư thức văn chương về mặt hiện tượng luận là định hướng ư thức đối tượng/bản văn, song về mặt hữu thể luận chính là  nguyên lư của sự vật văn chương.

Trong một cuộc mạn đàm, tôi có nói đến ngôn ngữ/hữu thể như một vấn đề triết học cơ bản ở thế kỷ hai mươi vừa qua và Heidegger nói đến ngôn ngữ qua bài thơ Một chiều đông của Georg Trakl: bài thơ nói lên điều ǵ, không phải bất kỳ chiều đông nào, nhưng ở đây là những sự vật gợI lên tứ tượng/geviert trời/đất/thần/nhân tụ hộI trong cái thường gọI là thế giớI (bài thơ Ein Winterabend không vẽ lên một buổI chiều đông xảy ra ơ nơi nào, thờI nào..Ai cũng biết bài thơ là văn chương. Nó chỉ là văn chương [nghĩa là giả tưởng] ngay cả xem như miêu tả [102]. Thật sự, ngay từ thế kỷ 19, Nguyễn Du trong thơ Hán Dương Văn Diểu  ngắm cảnh chiều Hán Dương ở Hồ Bắc, nhớ đến thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hạo đă nhận ra chân lư của thơ thâu tóm trong câu 'Thi thành thảo thụ giai thiên cổ' để chỉ ư nghĩa bản chất của thơ như Heidegger quan niệm nói trên [103].

------------

[95]  Như quan niệm ở thời đại La mă với Sénèque: Omnis ars natură imitatio est.

[96]  như Aristote  nhắc lại trong thiên Đạo lư: άμϕοίν ϒάρ όντοιν ϕίλοιν όσιον προτιμάν τήν άλήθειαν (dầu là bạn thân, song công chính vẫn là tôn trọng chân lư trước đă).

[97] Thâu tóm trong phát biểu ή τέχνη μιμείται τήν φύσιν không chỉ t́m thấy ở thi pháp mà ở những tác phẩm khác của Aristote như Lư học/Physica, Khí tượng học/Meteorologica, Thế giới luận/De  Mundo. Nghệ thuật ở đây chỉ chung những sự vật thuộc về mỹ thuật và công nghệ,  thiên nhiên ở đây chỉ thị nguyên lư nội tại, lực sản xuất của vũ trụ.

 [98] Physica I, 192b. Xem: Triết học Aristote 1972  (ĐPQ).

 [99] Trong ngôn ngữ Hy lạp, những từ ποίησις, ποιητική đều dùng để chỉ sáng tạo, thi pháp, thi ca, như từ Dichtung trong ngôn ngữ Đức sau này. Nhan đề tác phẩm Dichtung und Wahrheit  của Goethe mang ư nghĩa sáng tạo và chân lư  là một hành trạng đời sống của tác giả, một tự truyện phản ảnh sáng tạo  từ đời sống con người như quan niệm Aristote nêu trên. Nhan đề thiên khảo luận quan trọng của Dilthey Die Einbildungskraft des Dichters. Bausteine für eine Poetik 1887 (in GS VI) cũng chỉ ra ư nghĩa của Dichtung, Dichter và Poetik mà Dilthey dùng để chỉ nghệ thuật văn chương (thơ/văn vần và văn xuôi), nhà thơ và nhà văn, sáng tạo/thi pháp.

[100]  Ψευδή λέγειν ώς δεί (1460a).

[101]  Bản dịch của Phạm Vũ, Lê Hiền 1972.

[102]  Allein das Gedicht stellt nicht einen irgendwo und irgenwann anwesenden Winterabend vor.. Alle Welt weiβ, daβ ein Gedicht Dichtung ist. Es dichtet sogar dort, woe s zu beschreiben scheint. Die Sprache (in Unterwegs zur Sprache 1959).

Cuộc mạn đàm nói trên in trong  Cơ sở tư tưởng thời quá độ 2007.

[103]  Thơ làm cho cây cỏ trở thành bất hủ, hàm ư nghĩa nhờ bài thơ của Thôi Hạo mà cây Hán Dương, cỏ Anh Vũ hiện diện muôn đời, như buổi chiều đông của Trakl là buổI chiều hiện hữu bất tử.

(c̣n tiếp)

Đặng Phùng Quân

http://www.gio-o.com/DangPhungQuan.html

 

© gio-o.com 2011