đào trung đạo
Thông Diễn Luận
của
Martin Heidegger
- 15 –
Kỳ 1, Kỳ 2, Kỳ 3, Kỳ 4, Kỳ 5, Kỳ 6, Kỳ 7, Kỳ 8, Kỳ 9, Kỳ 10, Kỳ 11, Kỳ 12, Kỳ 13, Kỳ 14 Kỳ 15, Kỳ 16, Kỳ 17, Kỳ 18, Kỳ 19, Kỳ 20, Kỳ 21, Kỳ 22, Kỳ 23, Kỳ 24, Kỳ 25, Kỳ 26, Kỳ 27, Kỳ 28, Kỳ 29, Kỳ 30, Kỳ 31, Kỳ 32, Kỳ 33, Kỳ 34, Kỳ 35, Kỳ 36, Kỳ 37, Kỳ 38, , Kỳ 39, , Kỳ 40, Kỳ 41, Kỳ 42, Kỳ 43, Kỳ 44, Kỳ 45, Kỳ 46, Kỳ 47, Kỳ 48, Kỳ 49, Kỳ 50, Kỳ 51, Kỳ 52, Kỳ 53, Kỳ 54, Kỳ 55, Kỳ 56, Kỳ 57, Kỳ 58, Kỳ 59, Kỳ 60, Kỳ 61, Kỳ 62, Kỳ 63, Kỳ 64, Kỳ 65, Kỳ 66, Kỳ 67, Kỳ 68, Kỳ 69, Kỳ 70, Kỳ 71, Kỳ 72, Kỳ 73, Kỳ 74, Kỳ 75, Kỳ 76, Kỳ 77, Kỳ 78, Kỳ 79, Kỳ 80, Kỳ 81, Kỳ 82, Kỳ 83, Kỳ 84, Kỳ 85, Kỳ 86, Kỳ 87, Kỳ 88, Kỳ 89, Kỳ 90, Kỳ 91, Kỳ 92, Kỳ 93, Kỳ 94, Kỳ 95, Kỳ 96, Kỳ 97, Kỳ 98, Kỳ 99, Kỳ 100, Kỳ 101, Kỳ 102, Kỳ 103, Kỳ 104, Kỳ 105, Kỳ 106, Kỳ 107, Kỳ 108, Kỳ 109, Kỳ 110,
Trước khi tóm gọn quan niệm buổi đầu về ngôn ngữ của Heidegger trong Sein und Zeit tưởng cũng nên nhớ lại rằng vào năm 1920 Heidegger trong một giáo tŕnh ở Freiburg tên Phänomenologie der Anschauung und des Ausdrucks. Theorie der philosophischen Begriffsbildung – không hiểu v́ lư do ǵ sau này trong những tác phẩm từ 1939 trở đi Heidegger khi nhắc tới giáo tŕnh này chỉ vắn tắt gọi là Anschauung und Erscheinen – đă cho thấy kể từ thời điểm này trọng tâm tư tưởng của Heidegger đă xoay quanh mối liên hệ giữa ngôn ngữ và Hữu. Điều này được chính Heidegger nhắc lại trong Unterwegs zur Sprache: “Vào thời điểm đó tôi đặc biệt bức xúc về vấn đề/câu hỏi về mối quan hệ giữa từ/lời của Thánh Kinh và sự suy tưởng thần học thuần lư. Mối quan hệ này, giữa ngôn ngữ và Hữu, nếu như ông [Người Nhật đối thoại] muốn, cũng là một mà thôi, có điều mối liên hệ này bị che kín và tôi không tiếp cận được, thế nên qua bao nhiêu sự lệch hướng và khởi đầu không đúng cách tôi đă hoài công để t́m ra được một sợi chỉ dẫn lối.”(On the Way to Language, bản Anh văn Peter D. Hertz trang 9-10). Thời trẻ tuổi Heidegger được giáo dục trong môi trường tôn giáo, dù đă đổi đạo từ Thiên-chúa sang Tin Lành sau một thời gian khủng hoảng niềm tin, nhưng dấu vết tôn giáo trong tư tưởng Heidegger tuy nằm xâu nhưng luôn hiện diện, nhất là vào giai đoạn về già. Otto Pöggeler trong Der Denkweg Martin Heidegger/Những Con Đường Tư Tưởng của Martin Heidegger (trang 270) khi diễn giải đoạn trích dẫn trên đă chỉ ra rằng nếu như tư tưởng trừu tượng (speculative thinking) là có liên hệ với Lời của Thánh Kinh th́ tư tưởng này hẳn phải vén mở ra một lời tuyên xưng có tính chất của một sự nh́n nhận vốn có tính cách lịch sử. Lời tuyên xưng rước đón và nh́n nhận này không thể được xác lập bằng những phương tiện có tính cách khoa học của khoa sử kư (historiography) v́ nó không phải là cái sẵn sàng trong tầm tay, bất biến vĩnh cửu, nhưng là một diễn biến không bao giờ hoàn tất. Trong sự thỉnh vọng này chân lư tự hiến dâng đồng thời cũng tự thủ tŕ dấu mặt cho nên thỉnh vọng này luôn luôn là một ẩn mật triển hạn chờ đợi sự khải huyền trong tương lai. Nói cách khác, sự thỉnh vọng đón chào này ban phát một Hữu mới, nhưng sự ban phát này được thể hiện theo cung cách có tính lịch sử, và ở vào đúng thời điểm. Heidegger cho rằng siêu h́nh học truyền thống đă thất bại trong những nỗ lực phơi mở Hữu của những hữu v́ đă coi Hữu như hiện diện thường hằng vĩnh cửu. Ngược lại Heidegger tư tưởng Hữu như một biến cố (event) chính nó đáp lời con người đồng thời lại tự thủ tŕ, dấu mặt. Ngôn ngữ hiểu như tuyên xưng chào đón Hữu v́ vậy có tính thời gian, lịch sử. Như vậy ta thấy rơ nằm sâu khuất sau bề mặt của Sein und Zeit là những điều nói trên về Lời của Thánh Kinh di chuyển sang Hữu. Tra vấn về ư nghĩa của Hữu do đó là tra vấn về thời gian, mối liên hệ giữa Hữu và thời gian là những hiện tượng không thể dùng khoa luận lư cổ điển để khám phá ra được. Heidegger viết: “Rằng điều khoa luận lư truyền thống khiến chúng ta thất bại khi đối mặt với những hiện tượng này không phải là điều đáng ngạc nhiên nếu chúng ta đừng quên rằng khoa luận lư này đặt nền tảng trên một hữu thể luận về cái sẵn-sàng-đề-sử-dụng (the present-at-hand) – một thứ hữu thể luận đúng ra c̣n thô thiển.”(GA 2:129, bản Anh văn của M&R:166-7). Như trong một phần trên đă nói, trong giai đoạn trước Sein und Zeit, trong giáo tŕnh GA 21 1925-1926 khi dạy học Heidegger đă khảo sát tường tận khoa luận lư cổ điển, t́m hiểu luận lư cổ điển trên quan điểm hữu-thể-luận, và cuối cùng đi tới kết luận là phạm vi nghiên cứu của khoa luận lư cổ điển chỉ là hữu có mặt thường hằng trong hiện tại, trong-tầm-tay-với, trong khi Hữu trong hữu-thể-luận từ trong căn cốt gắn liền với thời gian và lịch sử, v́ vậy luận lư cổ điển không hữu dụng cho việc t́m hiểu mối tương quan giữa Hữu và ngôn ngữ. Heidegger quay trở lại với quan niệm về logos của Aristotle nhằm xây dựng một hiện-tượng-học thông-diễn-luận để phân tích Hiện-thể trong việc tự am hiểu bản thân qui chiếu nơi Hữu luôn chuyển biến. Chính cái logos thông-diễn (hermeneutic logos) duy tŕ cái “như” hiện hữu và “như” thông-diễn khỏi sa đà thành cái “như” đề quyết (apophantic as) chỉ tŕnh ra được hữu trong-tầm-tay-với.(Cf. GA 2:157-159; M&R 199-202, GA 2:351-364; M&R:412-415). Chính v́ vậy trong Sein und Zeit Heidegger đưa ra con đường khảo sát vấn đề ngôn ngữ và luận lư trong viễn tượng của ngôn từ con người (Rede), và Rede lại được hiểu như sự phát biểu (Artikulation) của in-der-Welt-sein thông qua cảnh trạng (Befindlichkeit – chữ này Heidegger hiểu theo nghĩa chữ διαθεσις của Aristotle trong quyển Metaphysics V. 19, 1022b2 có nghĩa là tư thế trong thế giới/trên đời) và am hiểu (Verstehen). Heidegger dùng chữ Rede để dịch chữ logos được hiểu là thành tố hiện thế (ek-sistential component) của Dasein, và chính nhờ có thành tố này Dasein có thể phát biểu điều ḿnh hiểu biết. Nói vậy cũng có nghĩa là ngôn ngữ chỉ khả hữu dựa trên sự tạo lập về mặt hữu-thể-luận (ontological constitution) của Dasein. Ngôn ngữ trở thành sự phát biểu của một thế giới theo lịch sử và thời gian, và v́ vậy thế giới luôn được làm mới trong trong mỗi phát biểu này. Như chúng ta đă thấy trong SuZ Heidegger đă đề cập tới vấn đề ngôn ngữ một cách gián tiếp; lần thứ nhất khi bàn về ư nghĩa “nguyên ủy” của logos được coi như một thành tố cơ bản của hiện-tượng-luận (SuZ §7b;132-4), và sau đó trong §7c giải thích tại sao hiện-tượng-luận phải là hiện-tượng-luận thông diễn. Trong cả hai trường hợp này ngôn ngữ đều được khảo sát như logos của Hiện-thể. Heidegger trở lại chủ đề ngôn ngữ khi bàn về thế-giới-tính của ngôn ngữ và tính chất dụng cụ của ngôn ngữ trong §17 “Qui chiếu và Dấu chỉ/Reference and signs) ” tŕnh bày mối tương quan giữ dấu chỉ (sign) và chỉ nghĩa (signification) nhằm giải thích cấu thức chỉ nghĩa của ngôn ngữ và chức năng của cấu thức này trong Hữu thường nhật của Hiện thể và mối quan tâm của Hiện thể với tha nhân. Tựu trung, chủ ư của Heidegger khi bàn về ngôn ngữ là để giải thích sự cấu tạo sinh hiện của “Da/Hiện” của Hiện-thể trong ṿng tṛn thông diễn khởi từ am hiểu qua diễn giải, và khẳng quyết tùy thuộc vào am hiểu và diễn giải để chỉ ra rằng “cái ‘lư’ của logos cội rễ nằm trong phân tích sinh hiện về Dasein ” (GA 2:160; M&R:203) cũng như cái thông-diễn (hermeneutic) có quan hệ gắn bó với cái đề quyết (apophantic). Trong những phần này của SuZ Heidegger mô tả cảnh trạng nguyên ủy (Befindlichkeit) và am hiểu nguyên ủy (Verstehen) và kết luận rằng hai thành tố này là những sinh hiện (ek-sistentials) nền tảng của cách thế của Hữu là đặc trưng của Hiện-thể/Dasein hiểu trong khung cảnh in-der-Welt-sein. Am hiểu nguyên ủy này tự bản thân đă dung chứa khả hữu minh giải (Auslegung), minh giải bao gồm điều am hiểu được biểu lộ ra một cách thích hợp và rơ ràng. Theo Heidegger, phát biểu (Aussage/enunciation) chỉ là một cách thế phụ tùy của minh giải v́ trước hết phát biểu có nghĩa là chỉ ra, bày ra, sau đó mới có nghĩa là gán một cái/vật ǵ cho một cái/vật ǵ, và sau cùng mới có nghĩa là thông giao/ báo cho biết một điều ǵ đó. Và chỉ khi người ta chuyên chú vào nghĩa sau cùng này th́ lời nói (speech) và ngôn ngữ (language) mới được nhắc tới. Có thể nói khi luận về ngôn ngữ Heidegger chủ yếu đặt ngôn ngữ trong tương quan với Hữu, gán cho ngôn ngữ chức năng phơi mở thế giới (world-disclosure). Như vậy ngôn ngữ có thể nói ăn xâu trong phơi mở thế giới, mà phơi mở thế giới lại là một đặc tính của cách thế của Hữu của Dasein hiện hữu trong thế giới. Vậy phải chăng ngôn ngữ bắt nguồn từ logos hay từ Hữu của Dasein? Trong SuZ Heidegger tuy không trực tiếp đề cập tới vấn đề nguồn gốc của ngôn ngữ nhưng những phân tích khá phức tạp trong suốt §34 đă không đưa ra một giải quyết dứt khoát những vấn đề xoay quanh sự phân biệt giữa “ư nghĩa” và “vật qui chiếu” tồn tại trong triết lư về ngôn ngữ Đức truyền thống trải dài từ Leibniz qua Kant đến Hamann-Herder-Humboldt. Quan niệm về ngôn ngữ của Heidegger nằm trong truyền thống này khi cho rằng ngôn ngữ có vai tṛ phơi mở thế giới, nhưng quan niệm về ngôn ngữ của Heidegger trong SuZ dường như vẫn chưa thoát khỏi siêu-h́nh-học truyền thống khi bàn về Hữu của ngôn ngữ. Khi luận về mối quan hệ giữa phát biểu (Aussage) và logos (Rede) Heidegger chưa chỉ ra được một cách rơ ràng mối liên hệ này như thế nào tuy cho rằng logos là nền tảng của phát biểu và minh giải, và cái được phát biểu trong minh giải là ư nghĩa và v́ in-der-Welt-sein là toàn bộ những ư nghĩa cho nên việc chỉ nghĩa đă luôn luôn chuyên chở ư nghĩa. Nhưng câu hỏi đặt ra là: phải chăng logos của Dasein trong việc phơi mở thế giới hẳn phải có một mô thức Hữu có tính chất thế giới, cấu thức của Hữu này nằm trong sự kiện cái toàn thể ư nghĩa khả tri có thể được đặt trong từ/chữ (Vort) qua ngả logos. Nói cách khác chính qua logos mà từ (coi như sự vật) được phân phối cho những chỉ nghĩa (significations), và điều ngược lại nghĩa là những sự chỉ nghĩa lại được gán cho từ-sự vật (word-things) là không thể chấp nhận được đứng trên quan điểm của Heidegger. “Cách thế diễn ngôn được biểu lộ là ngôn ngữ. Ngôn ngữ là toàn thể những từ - một toàn thể trong đó diễn ngôn có một Hữu có tính ‘thế giới’ (worldly) của riêng ngôn ngữ; và như là một thực tại trong-thế-giới, cái toàn thể này v́ vậy trở thành một thứ chúng ta có thể hiểu như nằm-trong-tầm tay sử dụng.Ngôn ngữ có thể tách rời ra thành những từ-Sự vật sẵn-sàng-sử dụng. Diễn ngôn là ngôn ngữ xét về mặt hiện thế bới v́ tính chất phơi mở (discloseness) của cái thực thể này ngôn ngữ Phát biểu theo những chỉ nghĩa có một loại Hữu, Hữu-trong-thế-giới – một Hữu đă bị ném vào và giao nộp cho thế giới. ” GA 2:161; R&M:203). Như vậy, xét về mặt hiện thể, ngôn ngữ chính là phát-biểu-tính (enunciatedness) của logos, logos diễn ngôn (discursive logos) do đó là phát biểu chỉ nghĩa của tính khả tri của in-der-Welt-sein của con người và của tất cả mọi thứ thiết yếu nằm trong thế giới. Tính khả tri trong logos diễn ngôn này có gốc rễ từ am hiểu và cảnh trạng nguyên ủy được phát biểu trong những chỉ nghĩa. Sự phát biểu có những yếu tố tạo thành gồm: cái/điều nói về, cái/điều được cho dạng thức qua nói, chính sự thông giao hiểu theo nghĩa rộng nhất, và việc làm cho tha nhấn biết về cái/điều đó. Những thành tố này không phải của ngôn ngữ mà là những tính chất căn bản của logos đă bắt rễ trong am hiểu và cảnh trạng nguyên ủy và chính nhờ những tính chất căn bản này mà có ngôn ngữ.
Như chúng ta đă biết ngôn ngữ có những cấu trúc của sự chỉ định nghĩa cho các từ mà người sử dụng ngôn ngữ phải tuân thủ, cái hệ thống luận lư-từ nghĩa (logico-semantic system) này tạo thành ngôn ngữ có tính chất độc lập với cộng đồng sử dụng ngôn ngữ đó. Trong SuZ Heidegger coi Dasein là trọng điểm/sở cứ và cũng là chủ thể của diễn ngôn về Hữu, logos của Hiện thể có chức năng tŕnh ra, chỉ ra cho thấy, làm cho ta hiểu một cách độc lập với những cấu thức chỉ nghĩa của ngôn ngữ. Nhưng khi Heidegger cho rằng diễn ngôn chỉ có khả năng sản xuất ra ư nghĩa trong chừng mực khi diễn ngôn được phát biểu bằng các từ, nghĩa là diễn ngôn đă được tạo lập trong ngôn ngữ th́ rơ ràng quan điểm của Heidegger không ổn về mặt lư luận. Một mặt Heidegger cho rằng ngôn ngữ chỉ là phát-biểu-tính (enunciatedness) của cái logos của Dasein, phát-biểu-tính này là toàn thể ư nghĩa trong logos, logos này có riêng một Hữu “thế giới”, cái toàn thể ư nghĩa này sau khi được đưa vào từ/chữ để chỉ nghĩa th́ từ (số nhiều) tích lũy “to significations words accrue.” (GA 2:161; R&R:204). Heidegger rơ ràng đă thất bại không giải thích được mối liên hệ giữa phạm vi toàn thể ư nghĩa bất biến, phi thời gian nằm trong in-der-Welt-sein với cấu trúc luận lư-từ nghĩa của ngôn ngữ vốn biến thiên theo thời gian. Arion Lothar Kelkel trong La légende de l’être: Language et poésie chez Martin Heidegger (Ed. Vrin, Paris 1980, p.328-336) cho rằng ở giai đoạn sau SuZ Heidegger đă nhận ra sự nghịch lư này nguyên do v́ vẫn c̣n tư tưởng về ngôn ngữ theo đường lối siêu-h́nh-học cổ điển nên đă nỗ lực chuyển hướng tư tưởng, không bảo lưu ư tưởng cho rằng Hiện thể “có” ngôn ngữ nữa mà cho rằng Hiện thể là sở cứ để ngôn ngữ lên tiếng. Ngôn ngữ không chỉ là một dụng cụ, nhưng chính ngôn ngữ lên tiếng (language speaks), và việc nói/lên tiếng của con người chỉ là lời đáp lại tiếng nói của ngôn ngữ. Và để đáp lời được tiếng nói của ngôn ngữ Dasein phải học hỏi để nghe tiếng và lắng nghe/ngóng ngôn ngữ của Hữu.
(c̣n tiếp)
đào trung đạo
http://www.gio-o.com/DaoTrungDao.html
©gio-o.com 2010