đào trung đąo

Thông Din Lun

Martin Heidegger

(98)

 

Kỳ 1,  Kỳ 2,  Kỳ 3,  Kỳ 4,  Kỳ 5,  Kỳ 6, Kỳ 7, Kỳ 8, Kỳ 9, Kỳ 10, Kỳ 11, Kỳ 12, Kỳ 13, Kỳ 14 Kỳ 15, Kỳ 16, Kỳ 17, Kỳ 18, Kỳ 19, Kỳ 20, Kỳ 21, Kỳ 22, Kỳ 23, Kỳ 24, Kỳ 25, Kỳ 26, Kỳ 27, Kỳ 28, Kỳ 29, Kỳ 30, Kỳ 31, Kỳ 32, Kỳ 33, Kỳ 34, Kỳ 35, Kỳ 36, Kỳ 37, Kỳ 38, , Kỳ 39, , Kỳ 40, Kỳ 41, Kỳ 42, Kỳ 43, Kỳ 44, Kỳ 45, Kỳ 46, Kỳ 47, Kỳ 48, Kỳ 49, Kỳ 50, Kỳ 51, Kỳ 52, Kỳ 53, Kỳ 54, Kỳ 55, Kỳ 56, Kỳ 57, Kỳ 58, Kỳ 59, Kỳ 60, Kỳ 61, Kỳ 62, Kỳ 63,  Kỳ 64,  Kỳ 65Kỳ 66, Kỳ 67, Kỳ 68, Kỳ 69, Kỳ 70, Kỳ 71, Kỳ 72, Kỳ 73, Kỳ 74, Kỳ 75, Kỳ 76, Kỳ 77, Kỳ 78, Kỳ 79, Kỳ 80, Kỳ 81, Kỳ 82, Kỳ 83, Kỳ 84, Kỳ 85, Kỳ 86, Kỳ 87, Kỳ 88, Kỳ 89, Kỳ 90, Kỳ 91, Kỳ 92, Kỳ 93, Kỳ 94, Kỳ 95, Kỳ 96,  Kỳ 97, Kỳ 98,  

 

Phản biện, đối đầu Heidegger của Derrida khá phức tạp: đích nhắm Heidegger trong những bản văn của Derrida phải nói ít nhất là đă bắt đầu ngay từ quyển La voix et le phénomène, dai dẳng tiếp tục qua L’écriture et la différence, De la grammatologie, Marges de la philosophie cho đến bốn bài Geschlecht I, II, IIIIV, De l’esprit và nhất là phản bác cách đọc/thông diễn Nietszche của Heidegger từ Éperons: Les Styles de Nietszche, L’oreille de l’autre, otobiographies, transferts, traduction, Texte et interprétation, và sau hết là nan đề về cái chết trong tư tưởng Heidegger qua quyển Apories: Mourir-s’attendre aux limites de la vérité. Một điều quan trọng cần nhấn mạnh là những tựa đề nêu trên không phải là những quyển sách được coi như những tổng thể hoàn chỉnh với một ư nghĩa nhất định nhưng là những bản văn không có dứt điểm, đa nghĩa và có tính chất đặt vấn đề (problematic) nhiều hơn là đi đến một kết luận dứt khoát. Hơn nữa cách viết của Derrida với cách dùng chữ gây ngạc nhiên, giọng điệu bay bướm chải chuốt đôi khi hí lộng mỉa mai, cách tŕnh bày vấn đề có tính cách văn chương hơn là triết học hàn lâm, đoạn rời, khiến những người không quen thuộc với bản văn Derrida cảm thấy khó khăn bối rối, và nhiều khi hiểu sai. Quả thực đọc và hiểu Heidegger đă là khó, đọc và hiểu Derrida - nhất là khi tranh biện với Heidegger - lại càng khó hơn v́ nếu không quen thuộc với sách vở của Heidegger th́ quả thật đành bó tay. Để dễ theo dơi, nắm bắt những chủ đề, vấn đề chính Derrida phản biện Heidegger không ǵ bằng nghe chính Derrida tóm tắt trong cuộc phỏng vấn với Didier Eribon: đó là những vấn đề trong tư tưởng Heidegger như: sự chính đáng, sự cận kề, quê hương/tổ quốc, phê b́nh kỹ thuật và khoa học, quan niệm về súc vật tính hay khác biệt về dục tính, tiếng nói, bàn tay, ngôn ngữ, “thời đại” hay thời đại tính, và trên hết là vấn đề về chính sự tra hỏi, “sự trung thành của tư tưởng”, đều là những chủ đề xương sống trong tư tưởng của Heidegger.(1)

   Phản biện thông diễn Nietszche của Heidegger được Derrida đưa ra chính yếu lần lượt trong ba bản văn: Éperons. Les styles de Nietszche (2), Otobiographies: L’Enseignement de Nietszche et la politique du nom proper (3), và Interpreting Signatures: Two Questions.(4)

Trước khi đi vào những phản biện của Derrida đối với thông diễn Nietszche của Heidegger chính yếu qua quyển Nietszche tưởng cũng cần khái quát về quyển này. Nietszche được Heidegger cho xuất bản năm 1961 là tập hợp nhưng bài viết rải rác của Heidegger trong mười năm 1936-1946, nghĩa là song song với thời điểm Heidegger biên soạn Beiträge zur Philosophie (Vom Ereignis) từ năm 1936 và Das Ereignis trong hai năm 1941-1942 và thông diễn thơ Hölderin trong quyển Erläuterungen zu Hölderlin Dichtung (1942). Đó là khoảng thời gian “khổ nạn” Heidegger sống qui ẩn, v́ đă hậu thuẫn Hitler và chính quyền Quốc xă tuy chỉ trong một thời gian ngắn với bài phát biểu trong tư cách viện trưởng đại học Marburg năm 1933 nhưng sau đó vỡ mộng, từ chức viện trưởng, và c̣n bị chính quyền Quốc xă sau đó trù dập xung đi xây chiến lũy ở mặt trận phía Nam. Đọc quyển Nietszche ta có thể thấy hai chủ đích của Heidegger: về mặt triết học Heidegger muốn chứng minh Lịch sử Siêu h́nh học chấm dứt với Nietszche trong quan niệm yếu tính của Hữu là Ư chí đưa tới Quyền lực và yếu tính của hiện sinh là Ṿng qui hồi Vĩnh cửu của cái Cùng một; về mặt chính trị Heidegger tŕnh bày tư tưởng của Nietszche để chỉ ra đó không phải là thứ ư thức hệ Quốc xă đă đánh tráo và suy diễn tùy tiện Nietszche để phục vụ cho mục tiêu chính trị, và cũng để biện minh cho việc Heidegger đă hấp tấp ảo tưởng về ư thức hệ Quốc xă nên đă lên tiếng hậu thuẫn trong thời gian đầu khi Hitler lên cầm quyền với hy vọng đây là cơ hội có thể đổi mới định chế đại học Đức. V́ quyển Nietszche chỉ là tập hợp những bài được viết chính yếu căn cứ trên quyển Ư chí đưa tới quyền lực trong một thời gian dài và với hai mục đích và trong hoàn cảnh nêu trên dù trong bài Tựa Heidegger đă cho biét những truy cứu sửa đổi suốt từ 1940 đến 1946 để dọn đường cho diễn giải (Aus-einander-setzung) hiểu theo nghĩa xác định chỗ đứng giữa Heidegger và Nietszche, Nhưng dù đă sửa lại nhiều chỗ đôi khi quan điểm của Heidegger vẫn có phần chao đảo. Thế nhưng, quyển Nietszche của Heidegger xuất bản năm 1961 đă tạo được ảnh hưởng mạnh mẽ và gây ra những tranh luận sôi nổi trong giai đoạn 1960-1970 ở Đức cũng như ở Pháp, khởi đầu cho việc hệ thống hóa triết lư của Nietszche, làm thay đổi tinh thần đọc/viết về Nietszche vốn chỉ nghiêng về diện mạo văn chương của Nietszche trong nhiều thập niên trước. Trước khi quyển Nietszche chính thức được xuất bản vào năm 1961 Karl Löwith đă cho xuất bản Nietzsche's Philosophy of the Eternal Recurrence of the Same/Triết lư Qui hồi vĩnh cửu của Cùng một(1935), Von Hegel zu Nietzsche: Der revolutionäre Bruch im Denken des neunzehnten Jahrhunderts/Từ Hegel đến Nietszche:Cách mạng Tư tưởng Thế kỷ 19 (1941), Karl Jaspers cho in Nietszche: Einführung in das Verständnis seines Philosophierens/Nietszche:Dẫn nhập để hiểu Hoạt động triết lư của Nietszche (1936), và Eugen Fink cũng cho in quyển Nietszches Philosophie/Triết lư Nietszche (1960). Karl Jaspers là bạn c̣n Karl Löwith và Eugen Fink đều là đệ tử của Heidegger nhưng những quyển sách này tuy mở đường cho hướng nghiên cứu Nietszche-triết gia nhưng không tạo ảnh hưởng lớn trong giới học giả, triết gia khảo về Nietszche như quyển Nietszche của Heidegger.

Một chi tiết tối quan trọng trong việc đọc Nietszche là vấn đề bản văn của Nietszche, nhất là quyển Der Wille zur Match do em gái Nietszche là Elizabeth-Förster Nietszche biên tập bản thảo cho xuất bản sau khi Nietszche đă chết. Vào thập niên 50 Richard Roos và Karl Schechta thổi bùng vụ việc về sự kiện này trước đây đă được H.J. Mette đặt nghi vấn về những bản văn của Nietszche được xuất bản qua quyển Der handschriftliche Nachlas Freidrich Nietszche (1932) và Freidrich Nietszche, Werke und Briefe (1933). Người ta đi đến kết luận là bản in hiện lưu hành quyển Der Wille zur Match là do em gái của Nietszche làm giả, tự ư biên tập chế biến tùy tiện. V́ vậy sau đó từ 1963 Giorgio Colli và Mazzino Monti căn cứ vào văn bản lưu trữ ở Viện lưu trữ Nietszche cho xuất bản Freidrich Nietszche: Sämtliche Werke, Kritische Studienausgabe (KSA) cho đến năm 1980 đă cho ra được15 tập, quan trọng nhất là là những tập in các bản văn chưa từng được xuất bản khi Nietszche c̣n sống, những bản văn này có giá trị khả tín cao (Nhà xuất bản Stanford University Press dự định dịch ra Anh văn toàn bộ Freidrich Nietszche: Sämtliche Werke, Kritische Studienausgabe thành 20 quyển).

Chính v́ sự kiện này Maurice Blanchot bắt đầu khảo sát tính chất của bản văn đoạn rời của Nietszche: cũng là những đoạn rời Blanchot ghi chú khi đọc những sách viết về Nietszche của Michel Foucault, Giles Deleuze, Eugen Fink, Jean Granier và những bài khảo luận của Jacques Derrida trong L’écriture et la différence.(5) Trong bài này Blanchot nhấn mạnh đến cách viết đoạn rời của Nietszche và cũng t́m cách trả lời tại sao người ta lại phải đưa ra một bản văn của Nietszche đă bị làm giả, chế biến tùy tiện. Theo Blanchot có lẽ người ta cứ cho rằng một “đại triết gia” hẳn phải để lại một “tác phẩm lớn” trong đó tŕnh bày một cách có hệ thống triết lư của ḿnh. Trong khi những bản văn do chính Nietszche sinh thời cho xuất bản lại hiển nhiên có tính chất tự-mâu thuẫn và đoạn rời, rất văn chương tầm phào phù phiếm. Heidegger chắc chắn biết quyển Ư chí đưa tới quyền lực hiện được lưu hành là đồ giả nhưng tại sao vẫn cứ dùng quyển này để khuyến khích một cách diễn giải Nietszche có hệ thống. Tuy Heidegger bác bỏ “cái gọi là tác phẩm chính yếu” chứa đựng những đoạn văn xáo trộn của những giai đoạn khác nhau trong đời Nietszche nhưng lại vẫn thấy cần thiết phải “suy tư về cách Nietszche tư tưởng” và nỗ lực chứng minh tư tưởng trung tâm của Nietszche nằm ở  “Ư chí đưa tới quyền lực”.  Theo Blanchot, dù cho chúng ta có thể sắp xếp những mâu thuẫn trong các bản viết của Nietszche một cách chặt chẽ theo kiểu lớp lang hay theo biện chứng kiểu Hegel đi nữa để cho dễ đọc, và dù cho chúng ta giả thiết có một diễn ngôn liên tục như một cái nền nằm đằng sau những bản viết bất liên tục th́ chúng ta sẽ cảm thấy ngay rằng làm như vậy Nietszche sẽ chẳng thể hài ḷng chút nào. Blanchot chỉ ra diễn ngôn của Nietszche luôn luôn lao tới phía trước chính nó, Nietszche đặt sở cứ cho triết lư của ḿnh qua cách tŕnh ra và diễn đạt trong một ngôn ngữ hoàn toàn khác, một thứ ngôn ngữ không c̣n được đảm bảo như một toàn thể nhưng gồm những đoạn rời, những điểm mâu thuẫn, và sự phân đoạn. Theo chúng tôi nhận xét cách đọc/viết Nietszche của Derrida chịu ảnh hưởng Blanchot sâu đậm.

Éperons. Les styles de Nietszche - Về tựa đề: Derrida ưa dùng những chữ có nhiều nghĩa như pharmakon, grammè, Geschlechtéperon cũng trong trường hợp này. Éperon (Derrida dùng danh từ này cũng như chữ ‘styles’ở số nhiều) có nhiều nghĩa: đinh thúc ngựa, móng hay cựa gà (hay các loài cầm điểu khác), cựa ở đài hoa, tường cựa gà xây ngang mũi núi hay ở những vườn trồng nho nhỏ hẹp, mũi nhọn tàu viễn dương. Tuy vậy Derrida muốn người đọc hiểu chữ éperon theo nghĩa hẹp đồng nghĩa với chữ spur trong tiếng Anh và chữ Spur tiếng Đức nghĩa là trace, sillage, indice, marque. (6) Tuy vậy khi đọc quyển này ta cũng thấy có những gợi ư liên hệ với bản văn: éperon gợi ra h́nh ảnh ngọn bút, lưỡi dao và cả cây dù (như trong câu văn “Tôi đă bỏ quên cây dù” của Nietszche được ghi trên trang mở đầu cho Phần 5 của bộ Freidrich Nietszche: Sämtliche Werke, Kritische Studienausgabe (thường được ghi tắt là KSA, quyển thứ 9 trang 587), nhằm diễn tả tính chất đâm thủng, xuyên suốt của cách viết của Nietszche, và cũng rất có thể đó là phallus trong liên hệ tới dục tính v́ trong phần mở đầu Éperons Derrida mở đầu bằng luận bàn về ‘người phụ nữ’ theo Nietszche quan niệm. Derrida đặt tựa bài thuyết tŕnh ‘Les Styles de Nietszche/Những cách viết của Nietszche’ tựa đề này cũng rơ ràng chỉ ra những điểm quan yếu trong việc đọc Nietszche của Derrida: sự vắng mặt của bất kỳ dấu chỉ nào vẫn được coi là có mặt toàn phần trong chân lư, giải mă tích cực bản văn, khẳng định thế giới như tṛ chơi, và khái niệm cách viết ở số nhiều nhằm ám chỉ Heidegger trong phần I quyển Nietszche ‘Ư chí hướng tới quyền lục như Nghệ thuật’ đă nhấn mạnh tới “cách viết vĩ đại” (le grand style) của Nietszche (“cách viết” dùng ở số ít.)  

________________________________

(1)     Jacques Derrida, “Heidegger, l’enfer des philosophes” , Le Nouvel Observateur tuần lễ từ 6-12, tháng 11, 1987.

(2)     Jacques Derrida, Eperons. Les styles de Nietszche, lần đầu in trong Nietszche aujourd’hui? quyển I, Union Général d’Édition, 1974 tập hợp những bài thuyết tŕnh về Nietszche ở Ceresy-la-Salle tháng 7, 1972 do Maurice de Gandillac tổ chức của Sarah Kofman, Phillipe-Lacoue-Labathe, Bernard Pautrat, Jean-Michel Rey và Jacques Derrida. Bài thuyết tŕnh của Derrida sau này được Flammarion in riêng thành Eperons. Les styles de Nietszche, 1974. Cách đặt hủ đề hội thảo Nietszche aujourd’hui? có tính chất tra vấn đầy thách thức thời đại.

(3)     Jacques Derrida, Otobiographies: L’Enseignement de Nietszche et la politique du nom proper, Gallilée, 1976. Được VLB Éditeur ở Quebec, Canada in lại một phần năm 1982 nhân cuộc hội thảo bàn tṛn ở Université de Montréal từ 22 đến 24 tháng Mười năm 1979 do Derrida chủ tŕ với sự tham dự của Eugenio Donato, Rodolphe Gasché, Claude Lévesque, Patrick Mahony, Christie V. McDonald, François Péraldi, và Eugene Vance.

(4)      Interpreting Signatures: Two Questions, in trong Dialogue & Deconstruction (58-71) do Diane Michelfelder và Richard Palmer dịch từ bản Pháp văn do chính Derrida đưa (theo ghi chú của hai dịch giả này vào năm 1989 th́ bản Pháp văn chưa được xuất bản nhưng bản dịch ra Đức văn bài này lần đầu được xuất bản do Phillipe Forget biên tập trong Text und Interpretation: Eine deutsche-französische Debate mit Beiträgen von Jacques Derrida, Phillipe Forget, Manfred Frank, Hans-
Georg Gadamer, Jean Greisch und François Laruelle
, Wilhelm Fink Verlag, 1984.

(5)     Maurice Blanchot: L’Entretien infini/Kết Đàm Vô Tận: 227-255 Nietszche et l’écriture fragmentaire.

(6)     Jacques Derrida, Spurs. Nietszche’s Styles,40: le spur anglais, l’éperon, est le “même mot” que le Spur allemande: trace, sillage, indice, marquee.

 

(c̣n tiếp)

đào trung đąo

http://www.gio-o.com/DaoTrungDao.html

 

©gio-o.com 2013