đào trung đąo
Thông Diễn Luận
Martin Heidegger
(87)
Kỳ
1,
Kỳ
2,
Kỳ
3,
Kỳ
4,
Kỳ
5,
Kỳ
6,
Kỳ
7,
Kỳ
8,
Kỳ
9,
Kỳ
10,
Kỳ
11,
Kỳ
12,
Kỳ
13,
Kỳ
14 Kỳ 15, Kỳ
16,
Kỳ
17,
Kỳ
18,
Kỳ
19,
Kỳ
20,
Kỳ
21,
Kỳ
22,
Kỳ
23,
Kỳ
24,
Kỳ
25,
Kỳ
26,
Kỳ
27,
Kỳ
28,
Kỳ
29,
Kỳ
30,
Kỳ
31,
Kỳ
32,
Kỳ
33,
Kỳ
34,
Kỳ
35,
Kỳ
36,
Kỳ
37,
Kỳ
38,
, Kỳ
39,
, Kỳ
40,
Kỳ
41,
Kỳ
42,
Kỳ
43,
Kỳ
44,
Kỳ
45,
Kỳ
46,
Kỳ
47,
Kỳ
48,
Kỳ
49,
Kỳ
50,
Kỳ
51,
Kỳ
52,
Kỳ
53,
Kỳ
54,
Kỳ
55,
Kỳ
56,
Kỳ 57, Kỳ 58, Kỳ
59, Kỳ
60, Kỳ
61, Kỳ
62, Kỳ
63, Kỳ
64, Kỳ
65, Kỳ
66, Kỳ
67, Kỳ
68, Kỳ
69, Kỳ
70, Kỳ
71, Kỳ
72, Kỳ
73, Kỳ
74, Kỳ
75, Kỳ
76, Kỳ
77, Kỳ
78, Kỳ
79, Kỳ
80, Kỳ
81, Kỳ
82, Kỳ
83, Kỳ
84, Kỳ
85, Kỳ
86, Kỳ
87,
Đối với
Derrida, ba triết gia quan trọng nhất để xây dựng
công tŕnh hủy tạo là Hegel, Nietszche, và Heidegger. Trước
bài ‘La différance’ và ‘Le puits et la pyramide’ cùng viết năm 1968,
trong De la grammatologie Derrida đă cho thấy Hegel đóng
vai tṛ chủ chốt trong việc triển khai hủy tạo:
“Chân trời của nhận thức tuyệt đối,
chính là sự xóa bỏ chữ viết/văn tự trong
logos, sự hồi phục dấu vạch trong sự tái
sinh, sự tái chiếm hữu của sự khác biệt, sự
hoàn tất của cái chúng ta đă gọi là siêu h́nh học
của cái riêng tư. Tuy nhiên, tất cả những ǵ
Hegel đă tư duy trong viễn cảnh này, nghĩa là tất
cả mọi thứ ngoại trừ mạt thế luận,
có thể được đọc lại như suy niệm
về văn tự. Hegel cũng là nhà tư tưởng của
sự khác biệt bất khả qui giảm. Ông ta đă phục
hồi tư tưởng như kư ức sản xuất
những dấu chỉ. Và ông cũng đă đưa sự
cần thiết thiết yếu của dấu vạch viết
vào lại trong một diễn ngôn triết học
– nghĩa là có tính chất Socrate - như chúng ta đă từng
thử chứng minh đâu đó – ông ta đă tin tưởng
ḿnh có thể vượt qua: Hegel là triết gia cuối cùng
của quyển sách và là nhà tư tưởng đầu
tiên của chữ viết/văn tự. (1) Hủy tạo
Hegel của Derrida chỉ ra Aufhebung là nơi chốn xảy
ra hủy tạo. Ba năm sau những bài về Hegel in trong
Marges, năm 1974 Derrida cho xuất bản Glas có thể
coi như để kết thúc Hegel. V́ là một quyển
sách rất khó đọc, khó tiếp cận cho nên giới
nghiên cứu văn học với vốn liếng triết
học không đủ để đi vào Glas nên ít nhắc
tới quyển này. Chúng tôi cho rằng Glas là một
tác phẩm đánh dấu thời đại v́ Derrida đă
đọc và hiểu Hegel trong một viễn tượng
triết học khác hẳn những chuyên gia đă viết về
Hegel trước đây nói chung, ở Pháp nói riêng. Để
hiểu tại sao Glas của Derrida đánh dấu một
bước ngoặt trong nghiên cứu về Hegel, Hegel
được hiểu khác đi từ sau Glas,
chúng ta cần tóm lược quá tŕnh tiếp nhận Hegel ở
Pháp.
Trước
thập niên 30s ở Pháp Hegel không được giới hàn
lâm đọc và dịch. Lư do Hegel không được nghiên
cứu khá phức tạp nhưng có lẽ trên hết v́ vào
giai đoạn sau Thế chiến I người Pháp có ác
cảm với tất cả những ǵ của Đức
theo nhận xét của Alexandre Kojève. Nhất là ác cảm
đối với Hegel v́ triết lư Hegel được coi
là biểu trưng cho chủ thuyết tôn sùng Đức
(Germanism) hoặc thống nhất những dân tộc nói
tiếng Đức (Pangermanism). Thêm vào đó là lư do thời
bấy giờ trong giới triết học hàn lâm triết
học duy lư của Descartes tuyệt đối ngự
trị tuy Kant có được nghiên cứu nhưng trong
viễn tượng tri thức luận khoa học. Trong
khung cảnh trí thức đó năm 1929 Jean Wahl cho xuất
bản quyển sách mỏng về Hegel: La malheur de la
conscience dans la philosophie de Hegel/Ư thức khốn khổ trong
triết học Hegel. Cuốn sách không thu hút
được sự chú ư của học giới.
Người thứ nh́ phá bỏ “sự thầm lặng
đồng lơa” (chữ của Mikel Dufrenne) của học
giới đối với Hegel là Alexandre Koyré âm thầm
dịch và chú giải những bản văn của Hegel
dọn đường cho sự tiếp nhận Hegel
ở Pháp. Nhưng người tạo được
ảnh hưởng lớn nhất – cũng là ảnh
hưởng lâu dài cho tới ngày nay - của Hegel ở Pháp
phải kể công đầu của Alexandre Kojève với
những bài giảng về Hegel ở École pratique des hautes études
suốt từ tháng Giêng năm 1933 cho đến tháng Năm
năm 1939 thu hút những khôn mặt thuộc giới trí
thức trẻ hàng đầu của Pháp thời đó như
Georges Bataille, Raymond Aron, Jacques Lacan, Raymond Queneau, Maurice
Merleau-Ponty, Eric Weil, Emmanuel Lévinas…đến nghe giảng.
Những bài giảng của Kojève đặt trọng tâm vào
cuốn Hiện tượng luận về Tinh thần
này sau được Raymond Quéneau thu tập và in thành
quyển Introduction à la lecture de Hegel. Alexandre Kojève
(1902-1968) là một trường hợp khá đặc
biệt: xuất thân từ một gia đ́nh giàu có, sinh ra
ở Nga, học đại học Heidelberg ở
Đức, làm luận văn tiến sĩ về triết
gia Nga Vladimir Soloviev dưới sự bảo trợ
của Karl Jaspers, chịu ảnh hưởng của
Heidegger và Koyré, sống ở Pháp suốt thời gian sau khi
trưởng thành và làm việc cho sở Ngoại vụ
thuộc Bộ Kinh tế Pháp, thông thạo nhiều tử
ngữ (Phạn, Hán, Tây tạng, cổ Hy lạp) cũng
như nói và viết thông thạo một số sinh ngữ
chính (Nga, Pháp, Đức. Anh.) Qua những bài giảng
về Hegel ta có thể thấy Kojève là một nhà mác-xít hiện
sinh lăng mạn. Năm 1937 Gibelin đưa ra bản
dịch quyển Leçons sur la Philosophie de ‘l’Histore, Những
bài giảng về Triết học Lịch sử, 1939
Henri Lefèbre cho in Morceaux choisis/Văn tuyển của
Hegel. Nhưng sự kiện quan trọng sau Introduction à la
lecture de Hegel của Kojève là việc Jean Hyppolite cho
xuất bản bản dịch quyển Phénoménologie de
l’Esprit/Hiện tượng luận về Tinh thần
của Hegel. Kể từ đó Hegel được coi là
triết gia quan trọng nhất được nghiên
cứu nhiều v́ theo lời Jean Hyppolite: “Sau cuộc
chiến cuối cùng (trong cuộc chiến này chúng tôi
trải nghiệm sự xâm lăng, thua trận, kháng
chiến) tư tưởng Pháp, và dĩ nhiên, tư
tưởng triết học, không ngừng làm rơ vị trí
của ḿnh qua vị trí lịch sử của con
người.”(2). Kể từ sau Thế chiến II kết
thúc triết học Hegel nở rộ ở Pháp. Như
vậy ảnh hưởng của Hegel ở Pháp có thể
nói là chậm. Ở Anh và Mỹ tuy sách của Hegel
được dịch từ những thập niên cuối
thế kỷ 19 nhưng Hegel và chủ nghĩa duy tâm
thuần suy của Hegel lại là mục tiêu phản bác
của chủ nghĩa thực dụng và triết học
phân tích. Nhưng điều oái oăm là sau một thời
gian dài bị những triết gia thực dụng và phân
tích đả kích, cuối cùng người ta lại t́m
thấy trong hệ thống của Hegel chính những
điều căn cốt chủ nghĩa thực dụng
và triết học phân tích đang t́m kiếm. Thảm
họa đáng nói đến nhất về việc nghiên
cứu Hegel đến với các triết gia Mác-xít sống
dưới chế độ cọng sản cai trị: nói
tới, nghiên cứu Hegel đồng nghĩa với “có quan
điểm, lập trường xét lại” nhằm
chỉ ra những sai lầm trong diễn giải tư
tưởng Marx được Nhà nước cọng
sản giao giảng nên lập tức bị trù dập.
Điển h́nh là trường hợp György Lukács và Trần Đức Thảo.
Alexandre
Kojève nhấn mạnh đến mặt nhân học của
tư tưởng Hegel khi tập trung vào chủ đề
tự-ư-thức và lịch sử trong quyển Hiện
tượng học về Tinh thần nhằm chứng
minh triết lư của Hegel trong nền tảng là một
triết học về sự tiến hóa của ư thức
trong lịch sử, trên nền tảng của biện
chứng Chủ-Nô. Theo Kojève, Hegel đă chỉ ra Ham
muốn là động cơ chính yếu của sự
triển khai của con người trong lịch sử: “Ngay
hữu của con người, hữu ư thức bản
thân, như vậy đă ngầm hiểu và giả thiết
sự Ham muốn,”(3) và hành động của con
người là phủ định (négative). Ham muốn
của con người khác với sự ham muốn của
các động vật khác v́ ham muốn của con
người không chỉ dừng lại ở sự
thỏa măn với cái có trước mặt nhưng
hướng tới một cái ǵ không có trước mât,
khiếm diện. V́ vậy ham muốn thực sự là cái
không-hữu (non-être), khiếm diện, vắng mặt, là
Ham muốn cái Ham muốn. Như vậy lịch sử con
người là lịch sử của Ham muốn cái
(được) ham muốn. Tư tưởng chỉ
đạo này xuyên suốt trong biện chứng Chủ-Nô: Nô
hy sinh sự ham muốn bản thân để thỏa măn ham
muốn làm chủ của Chủ, Nô nh́n nhận Chủ là
chủ trong khi không được chủ nh́n nhận
như Nô của Chủ. Chính tương quan phủ
định này là thiết yếu cho tự-ư-thức.
Nhưng sự nh́n nhận một chiều này chỉ ra
Chủ được nh́n nhận qua một sự vật
v́ vậy ư thức làm chủ của Chủ không toàn phần
trong khi ư thức của Nô là sự dồn nén Ham muốn,
qua lao động Nô biến đổi Thế giới
của cả Chủ lẫn của Nô và bản thân Nô. Lao
động cho phép Nô vượt lên trên, chấm dứt
mối quan hệ Chủ-Nô v́ ư thức của Chủ là ư
thức vong thân trong khi ư thức của Nô là ư thức
giải phóng. Qua cách giải thích này ta dễ nhận ra
Kojève vừa có tham vọng đưa ra một giải pháp
cho hoàn cảnh lịch sử thời đại vừa
muốn tổng hợp Mác-xít với hiện tượng
luận. Nhưng có lẽ sự độc đáo của
Kojève trong diễn giải Hegel nằm ở việc sử
dụng khái niệm diễn ngôn (discourse) để minh
giải khái niệm tinh thần (Esprit) trong chương B
của Phần VI bài giảng năm 1936-1937 diễn giải
Phenomenolgie của Hegel từ trang 346 đến 422 “Der
sich entfremdete Geist”. Kojève cho rằng Tinh thần theo Hegel
không là “thiêng liêng” của Thượng đế mà chính là
tinh thần con người theo nghĩa tinh thần này
nằm trong nội tại của Thế giới tự
nhiên và được nâng đỡ bởi hữu tự
nhiên, hiện hữu của hữu tự nhiên này bị giới
hạn bởi không và thời gian, “Tinh thần là Thực
tại được vén mở bởi Diễn ngôn,”
chứ không phát xuất từ hay là sự biểu
đạt của Tuyệt đối. Thế nên nhiệm
vụ của triết học là minh giải diễn ngôn.
Theo Kojève, dấu chỉ (signes) là con tầu lư tưởng
chuyên chở Tinh thần. Bởi diễn ngôn là độc
đoán, độc lập với những cái nó qui
chiếu tới, biến đổi tự nhiên thành
những thành tố của diễn ngôn, nên là điều
kiện tiên quyết của tinh thần tuyệt
đối, là trung gian để tự nhiên biến
chuyển thành thế giới văn hóa và kỹ thuật.
“Ngôn ngữ phát sinh từ sự không hài ḷng. Con
người nói về Tự/Thiên nhiên giết hại và làm
nó khốn khổ; con người nói về Nhà nước
ức chế nó, và con người làm kinh tế chính
trị bởi v́ lư tưởng xă hội không đúng
như lư tưởng của nó, không làm nó “thỏa măn..” (4)
Điều khá ngạc nhiên ở đây là Kojève khi đưa
Diễn ngôn vào giải thích Hegel dường như đă từ
bỏ quan điểm nhân học buổi đầu. Khi cho
rằng Diễn ngôn là điều kiên của khả tính Con
người th́ con người tùy thuộc vào quyền
năng của diễn ngôn, con người không chỉ là
con vật phải chết mà là cái chết nhập thể,
nhân loại tự vẫn qua tiếp diễn liên tục
biện chứng vượt bỏ (aufgehoben) của
diễn ngôn. Như ta thấy, tuy sơ lược,
diễn giải Hegel của Kojève trong phần đầu
về biện chứng Chủ Nô gần với tư
tưởng của György Lukács trong quyển Lịch
sử và Ư thức giai cấp nên trong bầu không khí
thời đại thiên tả, mác-xít ở Pháp đă đáp
ứng được nhu cầu tinh thần giải thích
hoàn cảnh lịch sử hiện tại qua tổng
hợp hiện tượng luận của Husserl với
tư tưởng Hegel. Nhưng ảnh hưởng đó
đă phai nhạt theo thời gian trong khi ảnh
hưởng của phần diễn giải tư
tưởng Hegel trong chủ đề Diễn ngôn lại
có ảnh hưởng lâu dài cho đến ngày nay về triết
học cũng như về mặt lư thuyết văn
học của Pháp.
_______________________________________
(1) De
la grammatologie, 41: L’horizon du savoir absolu, c’est
l’effacement de l’écriture dans le logos, la résumption de la trace dans la
parousie, la réappropriation de la différence, l’accomplissement de ce que nous
avons appelé ailleurs la métaphysique du propre.
Et poutant, tout ce que Hegel a pensé dans cet horizon, c’est-à-dire tout sauf
l’eschatologie, peut être relu comme méditation de l’écriture. Hegel est aussi
le penseur de la différence irréductible. Il a rehabilité la pensée comme mémoire
productrice de signes. Et il a réintroduit, comme nous essaierons de le
montrer ailleurs, la nécessité essentielle de la trace écrite dans un discours
philosophique – c’est-à-dire socratique – qui avait toujours cru pouvoir s’en
passer: dernier philosophe du livre et premier penseur de l’écriture.
(2) Jean
Hyppolite, Figures de la pensée philosophique, vol.2 (PUF 1971) trang
974.
(3) Alexandre
Kojève, Introduction à la lecture de Hegel, trang 11: L’être même de
l’homme, l’être conscient de soi, implique donc et presuppose le Désir.
(4) Ibid,
117: Le language naît du mécontentement. L’Homme parle de la Nature qui le tue
et le fait soufrir: il parle de l’État qui l’opprime, et il fait de l’économie
politique parce que la réalité sociale n’est pas conforme à son ideal, et ne le
“satisfait” pas.
(c̣n tiếp)
đào trung
đąo
http://www.gio-o.com/DaoTrungDao.html
©gio-o.com 2013