đào trung đạo
Thông Diễn Luận
của
Martin Heidegger
- 14 –
Kỳ 1, Kỳ 2, Kỳ 3, Kỳ 4, Kỳ 5, Kỳ 6, Kỳ 7, Kỳ 8, Kỳ 9, Kỳ 10, Kỳ 11, Kỳ 12, Kỳ 13, Kỳ 14 Kỳ 15, Kỳ 16, Kỳ 17, Kỳ 18, Kỳ 19, Kỳ 20, Kỳ 21, Kỳ 22, Kỳ 23, Kỳ 24, Kỳ 25, Kỳ 26, Kỳ 27, Kỳ 28, Kỳ 29, Kỳ 30, Kỳ 31, Kỳ 32, Kỳ 33, Kỳ 34, Kỳ 35, Kỳ 36, Kỳ 37, Kỳ 38, , Kỳ 39, , Kỳ 40, Kỳ 41, Kỳ 42, Kỳ 43, Kỳ 44, Kỳ 45, Kỳ 46, Kỳ 47, Kỳ 48, Kỳ 49, Kỳ 50, Kỳ 51, Kỳ 52, Kỳ 53, Kỳ 54, Kỳ 55, Kỳ 56, Kỳ 57, Kỳ 58, Kỳ 59, Kỳ 60, Kỳ 61, Kỳ 62, Kỳ 63, Kỳ 64, Kỳ 65, Kỳ 66, Kỳ 67, Kỳ 68, Kỳ 69, Kỳ 70, Kỳ 71, Kỳ 72, Kỳ 73, Kỳ 74, Kỳ 75, Kỳ 76, Kỳ 77, Kỳ 78, Kỳ 79, Kỳ 80, Kỳ 81, Kỳ 82, Kỳ 83, Kỳ 84, Kỳ 85, Kỳ 86, Kỳ 87, Kỳ 88, Kỳ 89, Kỳ 90, Kỳ 91, Kỳ 92, Kỳ 93, Kỳ 94, Kỳ 95, Kỳ 96, Kỳ 97, Kỳ 98, Kỳ 99, Kỳ 100, Kỳ 101, Kỳ 102, Kỳ 103, Kỳ 104, Kỳ 105, Kỳ 106, Kỳ 107, Kỳ 108, Kỳ 109, Kỳ 110,
Heidegger nhắc nhở mọi người khi đọc tuyển tập những bài viết trong Gesamtausgabe của ông rằng ‘Wege, nicht Werke’ [Những Con đường, chứ không phải những Công tŕnh/Tác phẩm] – câu chỉ dẫn này được in ngay trên b́a sách – vừa là một chỉ dẫn vừa là một đ̣i hỏi người nghiên cứu tư tưởng của Heidegger hăy chú trọng vào ‘những con đường tư tưởng’ hơn là vào những thành tựu. Khi xét quan niệm về Ngôn ngữ của Heidegger, để công b́nh và khách quan chúng tôi luôn dành cho lời nhắc nhở này một vị trí trung tâm xuyên suốt. Lư do rơ rệt nhất chính v́ quan niệm về Ngôn ngữ của Heidegger có một quá tŕnh triển khai không những trải dài trong nhiều thời kỳ mà c̣n khá phức tạp, nhiều khi những ư tưởng, những luận giải không mấy rơ ràng, nhất là trong quyển Sein und Zeit. Một lư do khác nữa là nếu ta không nh́n thấy sự nhất quán của con đường tư tưởng của Heidegger về ngôn ngữ, khi đọc những tác phẩm giai đoạn sau ta có thể hoặc không nắm vững những phát biểu khá khác lạ của Heidegger hoặc có cảm tưởng những phát biểu này đối nghịch với quan niệm về ngôn ngữ của ông trong giai đoạn trước. Mục tiêu chính của việc t́m hiểu quan niệm về Ngôn ngữ của Heidegger trong khuôn khổ sự khảo sát Thông diễn luận của Heidegger là để chỉ ra cách Heidegger tiến hành ṿng tṛn thông diễn để đi tới sự biến cải hiện tượng luận và sau đó là triết lư qua thông diễn luận.
Chính Heidegger cũng đă nhận xét rằng trong “Tôi chỉ biết mỗi một điều là: bởi v́ sự suy tưởng về ngôn ngữ, và về Hữu, đă định rơ con đường tư tưởng của tôi ngay từ buổi đầu, do đó việc thảo luận về những vấn đề này đă được đặt nằm ở cái nền phía sau càng xa bao nhiêu càng hay. Khuyết điểm căn bản của quyển Sein und Zeit là ở chỗ có lẽ tôi đă mạo hiểm đi quá xa về phía trước sớm sủa quá…” Chúng ta hăy thử khái quát vạch con đường tư tưởng về ngôn ngữ của Heidegger. Trong phần Phụ Lục của quyển Besinnung GA 66 chính Heidegger đă cho biết ngay từ khi viết luận án tiến sĩ Die Kategorien – und Bedeutungslehre des Duns Scotus/GA 1 vào năm 1916 “là một thử nghiệm để có một tiếp cận có tính cách lịch sử vào hữu thể học, và đồng thời vào câu hỏi liên quan tới ngôn ngữ…Xét về toàn thể th́ thử nghiệm này đă thất bại bởi v́ đă muốn hoàn tất quá nhiều và đă không hoàn toàn nắm vững chính vấn đề…Trong những năm 1920-1923 những khảo nghiệm ḍ đường đề cập đến chân lư, những phạm trù, ngôn ngữ, thời gian và lịch sử, tất cả cho đến thời điểm đó được gộp chung lại trong một chương tŕnh về một “hữu thể luận về Hiện thể con người”. Tuy nhiên, hữu thể luận này không được suy nghĩ như là một thảo luận có tính cách “riêng vùng” của cuộc khảo nghiệm con người, nhưng là một sự đặt nền tảng cho việc khảo nghiệm về những hữu (beings) như chúng là – đồng thời cũng là một sự tŕnh bày nhằm tách rẽ những sự khởi đầu của siêu h́nh học Tây phương với [tư tưởng] của người Hy Lạp. Về Sein und Zeit của năm 1927 [được coi] như con đường khởi đầu, cuộc thử nghiệm này đă bắt đầu từ những năm 1922-1926 về sự khả hữu là rạch ṛi – đi từ nền tảng trở lên và qua một sự khởi hoạt thực sự - vấn đề hữu theo một cung cách sao cho một cách nền tảng dẫn xa hẳn ngoài những khảo sát thời bấy giờ, và tuy thế cũng đồng thời cũng dẫn quay ngược trở lại sự tŕnh bày tách bạch về [tư tưởng] của người Hy Lạp và triết lư Tây phương.” (Bản dịch Anh văn Mindfulness của Parvis Emad và Thomas Kalary, Continium xb., trang 365-366).
Trong Sein und Zeit con đường tư tưởng về Ngôn ngữ của Heidegger, một cách khái quát, đă diễn tiến như thế nào? Ngay cả William Richardson, một đệ tử thân cận của Heidegger, trong quyển Heidegger: Through Phenomenology to Thought – quyển này xuất bản từ năm 1963 tuy được tham khảo nhiều nhưng xét ra v́ tác giả viết trong giai đoạn Gesamtausgabe chưa được Heidegger cho phép ấn hành nên có phần thiếu sót – cũng phải nh́n nhận ở thời điểm Sein und Zeit tư tưởng Heidegger trong §34 hăy c̣n tối tăm, và tiết này có lẽ là một phần ít thỏa đáng nhất trong toàn bộ quyển Sein und Zeit (Cf. William Richardson, S.J., Heidegger: Through Phenomenology to Thought, trang 66). Chúng tôi sẽ đề cập tới sự tối tăm này và thử giải thích nguyên do căn cứ trên sự kiện Heidegger trong nỗ lực vượt cặp phân chia chủ thể-đối tượng đă gặp phải những trở ngại do chính mục tiêu này của Heidegger đặt ra khi muốn vượt bỏ quan niệm về ngôn ngữ của những triết lư về ư thức (từ Descartes cho tới Husserl) đă đưa ra cặp đối nghịch ontic(al)/ontologic(al) [sinh hữu/hữu luận] hay cũng được gọi là sự khác biệt về mặt hữu thể luận (ontological difference) và meaning/referent [ư nghĩa/vật qui chiếu].
Chúng ta có thể thấy những bước chuẩn bị cho quan niệm về Ngôn ngữ trong Sein und Zeit trong loạt bài giáo tŕnh năm 1925-1926 Logik: Die Frage nach der Wahrheit, GA 21: “Cái kinh nghiệm nguyên ủy, tự nhiên của chúng ta về cách thế hiện hữu người nọ với người kia như thế nào của nhân hữu (human being), kinh nghiệm này hiểu được rằng việc phát ngôn (speaking) như là việc nói ra (talking) để vén mở, như thể một sự suy nghĩ qui định, chuẩn định. Phát ngôn-nói-nghĩ hợp nhất làm một như là cách thế của hữu của con người, trong đó con người vén mở hay chiếu sáng cho chính bản thân hay cho người khác cả cái thế giới lẫn chính Hiện thể [Dasein] của ḿnh, để từ đó có được cái nh́n {sight) nằm trong sự chiếu sáng đó , cái nh́n này như thể sự thấu thị (insight) bản thân, một ưu thế [Aussicht] trên thế giới, và cũng là sự xem xét cẩn trọng (Umsich) về thế giới. Khoa Luận lư như một khoa học về diễn ngôn hay nói khảo sát vấn đề này đúng theo nghĩa của phát ngôn: sự phơi mở một cái ǵ.” (GA 21, trang 6)
Như chúng ta đă biết, theo Heidegger Hiện thể/Dasein có ba thành tố hiện thể (existential components) là am hiểu (Verstehen/understanding), thiên hướng (Befindlichkeit/disposition), và Logos hiểu như Rede/Ngôn ngữ. Trong Sein und Zeit yếu tố thứ ba này không được nhấn mạnh, khai triển v́ tiêu điểm của Heidegger là phân tích Dasein. Trong §34 quyển Sein und Zeit Heidegger sau khi chỉ ra hai thành tố hiện thể (existentialia) tạo nên Hữu của cái “hiện/Da”, sự phơi mở của Hữu-trong-thế giới là tâm trạng và am hiểu, đă nhấn mạnh “Sự kiện ngôn ngữ giờ đây lần đầu tiên trở thành một chủ đề của chúng ta sẽ chỉ ra rằng hiện tượng này có căn rễ trong sự cấu thành hữu hiện của sự phơi mở của Hiện thể. Nền tảng hiện thể thữu thể luận (existential-ontological foundation) của ngôn ngữ là diễn ngôn hay nói [Rede].” Từ Rede Heidegger dùng ở đây được dịch khi th́ là phát ngôn (speech), khi th́ là ngôn ngữ (language) hay diễn ngôn (discourse). Theo William Richardson trong văn mạch của đoạn trích dẫn trên Rede không có nghĩa là ngôn ngữ nói mà là một thành tố của Hữu-tại làm cho ngôn ngữ nói khả hữu. (Xem: William Richardson, Heidegger:Through Phenomenology to Thought, trang 66). William Richardson cũng đề nghị nên để nguyên Rede theo Heidegger hiểu và dịch từ chữ λόγος theo nghĩa nguyên thủy là diễn tiến làm hiện rơ hay làm cho nh́n thấy khi xem xét quan niệm về Ngôn ngữ của Heidegger trong những bước đầu này. Trong Sein und Zeit trước khi bàn về Hữu-tại (Being-there) và Diễn ngôn trong §34 Heidegger đă đề cập thoáng qua vấn đề ngôn ngữ khi nói đến mối tương quan giữa việc quan sát đối tượng t́m thấy trong các từ và câu xuất hiện trong vai tṛ nói ra thông tin này là thành tố tạo lập thứ ba và là thành tố ít chủ yếu nhất trong cấu trúc của việc xác quyết, nghĩa là trong việc cho thuộc từ trong phán đoán (Aussage ist mitteilend bestimmende Aufzeigung, GA 2:156). Trong việc gán thuộc từ này khi nói xảy ra việc di chuyển của chủ thể từ trạng thái bị bận tâm/ưu lự về mốt cái/điều ǵ đó sang việc nói ra cho người khác điều đó xảy ra. Điều này xác nhận tính ‘tại’ của Hiện thể là chỉ ra và cư ngụ trong thế giới. Ngóa ra việc chỉ ra một cái ǵ đó này sẽ được định rơ sau đó giả thiết cái ǵ đó có một ư nghĩa (Sinn/meaning) hay có việc trao cho nó một ư nghĩa (Bedeutung/signification) V́ Sinn và Bedeutung khó phân biệt, nhiều khi dễ lầm lẫn cái nọ với cái kia, hơn thế nữa sự phân biệt này lại rất quan trọng khi bàn về mối tương quan giữa ư nghĩa và vật qui chiếu cho nên ta cần căn cứ vào trích dẫn trong Sein und Zeit: “Khi những hữu t́m thấy trong thế giới được khám phá cùng với Hữu của Hiện thể - nghĩa là khi chúng được hiểu biết – chúng ta nói rằng chúng có một ư nghĩa. Nhưng cái được hiểu, hiểu một cách chính xác, không phải là ư nghĩa mà là hữu, hay, nói cách khác, là Hữu. Ư nghĩa là cái tự nó trụ vững trong tính khả tri (Verständlichkeit/intelligibility) của một vật nào đó. Cái có thể hợp phối (articulated) trong sự phơi mở nhờ đó ta hiểu biết, chúng ta gọi là “ư nghĩa”…Ư nghĩa là cái “ở trên đó” của một sự phóng chiếu nhờ đó cái vật ǵ đó trở thành được hiểu là cái đó; ư nghĩa lấy cấu trúc từ một tiền-hữu [fore-having], một tiền-thị [fore-sight], và một tiền-niệm[fore-conception.] (GA 2: 151.)
(c̣n tiếp)
đào trung đạo
http://www.gio-o.com/DaoTrungDao.html
©gio-o.com 2010