đào trung đąo

Thông Din Lun

Martin Heidegger

(60)

 

Kỳ 1,  Kỳ 2,  Kỳ 3,  Kỳ 4,  Kỳ 5,  Kỳ 6, Kỳ 7, Kỳ 8, Kỳ 9, Kỳ 10, Kỳ 11, Kỳ 12, Kỳ 13, Kỳ 14 Kỳ 15, Kỳ 16, Kỳ 17, Kỳ 18, Kỳ 19, Kỳ 20, Kỳ 21, Kỳ 22, Kỳ 23, Kỳ 24, Kỳ 25, Kỳ 26, Kỳ 27, Kỳ 28, Kỳ 29, Kỳ 30, Kỳ 31, Kỳ 32, Kỳ 33, Kỳ 34, Kỳ 35, Kỳ 36, Kỳ 37, Kỳ 38, , Kỳ 39, , Kỳ 40, Kỳ 41, Kỳ 42, Kỳ 43, Kỳ 44, Kỳ 45, Kỳ 46, Kỳ 47, Kỳ 48, Kỳ 49, Kỳ 50, Kỳ 51, Kỳ 52, Kỳ 53, Kỳ 54, Kỳ 55, Kỳ 56, Kỳ 57, Kỳ 58, Kỳ 59, Kỳ 60,

 

Có hai vấn đề đặt ra cho Dilthey khi tiếp thu quan niệm của Schleiermacher: nếu lănh hội/am hiểu được định nghĩa trên hết như khả năng chuyển nhập của cá nhân sang tha nhân để đi tới diễn giải – diễn giải được hiểu như nhận thức những biểu lộ của đời sống được ghi nhận trên bản viết - th́ một mặt thông diễn luận đă hoàn tất khoa tâm lư học diễn giải bằng cách cho thêm vào thông diễn luận một khâu phụ nữa; mặt khác dựa trên tâm lư diễn giải tức là lại đưa thông diễn luận về hướng tâm lư học. Nhận thức những biểu lộ của đời sống trong bản viết như Schleiermacher và Dilthey chủ trương bị phê phán rằng những biểu lộ của đời sống đó không c̣n là những biểu lộ tức thời sinh động nữa mà chỉ là những biểu lộ qua sự tái tạo/lập (Nachbilden) bằng cách diễn giải những dấu chỉ (signs) đă được đối tượng hóa theo những quy tắc riêng rẽ tùy theo bản chất của mỗi loại dấu chỉ để trở thành đối tượng nghiên cứu. Hơn nữa, khi lại lấy tâm lư học làm cơ sở để biện minh cho những biểu lộ trong bản viết đă trở thành đối tượng diễn giải th́ bản viết không c̣n đóng vai tṛ trung tâm nữa mà trở thành một hiện tượng có tính chất tạm thời. Dilthey bị ám ảnh về việc chứng minh tính chất khách quan của thông diễn luận, chứng minh nhận thức thông diễn có tính chất khoa học nhằm chống trả những phê phán của chủ nghĩa thực chứng – vấn đề này đă trở thành không những là không tránh khỏi mà cũng c̣n là không có giải pháp – cho nên suốt trong công tŕnh của ḿnh Dilthey trở đi trở lại chỉnh sửa khái niệm Nachbilden sao cho thỏa măn yêu cầu có được khách quan tính. Dilthey cũng c̣n bị phê phán biến thông diễn luận phụ thuộc vào tâm lư học về tri thức. Để giải quyết vấn đề này Dilthey chủ trương một Lebensphilosophie/Triết lư đời sống, cho rằng đời sống thiết yếu là động năng sáng tạo (creative dynamism) nhưng động năng sáng tạo này không có khả năng tự nhận thức nên chỉ được diễn giải một cách gián tiếp qua những dấu chỉ và công tŕnh của nó v́ đời sống là một động năng sáng tạo tự cấu trúc liên tục. Trong những tác phẩm cuối đời Dilthey nỗ lực tổng quát hóa thông diễn luận bằng cách hướng về quan niệm chủ đích của đời sống, cho rằng đời sống thường trực được cấu trúc bởi những ư nghĩa thủ đắc, những giá trị hiện diện, và những mục tiêu xa theo ba chiều kích thời gian là quá khứ, hiện tại, và tương lai. Chính trong quan điểm này Dilthey tỏ ra đă rất gần với khái niệm tinh thần khách quan của Hegel. Và Heidegger đă phê phán Gadamer lấy nguyên quan niệm này của Dilthey đưa vào Wahreit und Method.

   Một cách tổng quát thông diễn luận của cả Schleiermacher lẫn Dilthey v́ có tham vọng đưa ra một phương pháp có giá trị ngang hàng với phương pháp của các khoa học tự nhiên nên vẫn c̣n đặt cơ sở trên tri thức luận (epistemology), như vậy thông diễn luận chỉ là nhánh của tri thức luận, và việc t́m cách giải quyết nan đề về mối liên hệ giữa nhận thức và diễn giải được giới hạn trong sự tranh luận về phương pháp (Methodenstreit) vốn là quan điểm chủ chốt của học phái Tân-Kant. Làm sao giải quyết nan đề này? Trước hết, câu hỏi đặt ra là phải chăng đặt thông diễn luận trên cơ sở tri thức luận là một quyết định đưa đến bế tắc trong việc giải quyết vấn đề thông diễn luận (hermeneutic problem)? Sau đó, thông diễn luận có là một phương pháp diễn giải không?

   Paul Ricoeur tuy nh́n nhận công tŕnh khai sơn phá thạch thông diễn luận của Heidegger khi đảo nghịch nền tảng: không đi từ tri thức luận mà phải đi từ hữu thể luận,  nhưng khác với Heidegger cũng như Gadamer khẳng định thông diễn luận không là một phương pháp, Ricoeur tuy không hẳn tâm đắc với việc chủ trương coi thông diễn luận là một phương pháp nhưng vẫn đưa ra mối quan tâm: đành rằng từ nay thông diễn luận phải đặt cơ sở trên hữu thể luận nhưng bằng cách nào ta có thể đi từ hữu thể luận nền tảng trở lại vấn đề có tính chất tri thức luận về địa vị (status) của những khoa học nhân văn?

   Sự đảo nghịch Heidegger chủ xướng thật ra gồm hai bước. Trong bước thứ nhất Heidegger từ những trang mở đầu SuZ đưa ra luận cứ để lật đổ tri thức luận : nếu như tri thức luận lấy khởi điểm là phân biệt chủ thể và khách thể hay đối tượng th́ Heidegger lại đặt khởi điểm trên hữu tra vấn Hữu và cho rằng mối quan hệ giữa Dasein/Tại thể tức hữu và Hữu là nguyên ủy, có trước mối quan hệ chủ thể và đối tượng. Dasein/Tại thể chỉ định một nơi chốn từ đó câu hỏi về  hữu được đặt ra, chứ không phải là một chủ thể để có một đối tượng. Một thành phần trong cấu trúc của Dasein/Tại thểtiền-nhận-thức về hữu. Nếu như phương pháp của những khoa học nhân văn được đặt cơ sở trên sự tùy thuộc vào chủ thể hay đối tượng th́ phân tích sự cấu thành của Dasein/Tại thể không đặt nền tảng trên bất kỳ sự tùy thuộc nào mà là phơi mở nền tảng bằng soi sáng, đưa ra những ư niệm nền tảng là cơ sở cho mọi đối tượng được khoa học đưa ra nghiên cứu do đó làm công việc định hướng cho mọi nghiên cứu thực nghiệm. Nói cho gọn: thông diễn luận triết học sẽ là sự giải thích những hữu xét về tư cách/trạng thái căn bản về hữu của chúng cho nên không đưa ra phương pháp cho những khoa học nhân văn mà đào xâu bên dưới phương pháp của những khoa học này để phơi mở nền tảng của những phương pháp.

   Bước thứ nh́; Nếu như Dilthey nối kết vấn đề nhận thức tha nhân – trong hầu hết các khoa học nhân văn vấn đề bao trùm là làm sao tiếp cận tinh thần hay tâm trí của tha nhân để nhận thức – th́ Heidegger lại tránh sự bế tắc này bằng cách không đặt vấn đề về mối tương quan với tha nhân mà chỉ ra rằng những nền tảng của vấn đề hữu thể luận nằm ở trong tương quan giữa hữu với thế giới chứ không phải với tha nhân. Nhận thức, theo nghĩa nguyên ủy nhất, ngầm chứa trong mối quan hệ của tôi với hoàn cảnh và trong nhận thức nền tảng của hoàn cảnh của tôi với hữu. Xét cho cùng sự bế tắc Dilthey gặp phải v́ Dilthey hăy c̣n luận giải vấn đề nhận thức dưới ảnh hưởng triết học Kant: nhận thức sự vật là nhận thức cái chưa biết trong khi nhận thức tinh thần là nhận thức không phải về sự vật mà là nhận thức chính nó: chúng ta cái tha nhân . Do đó nhận thức về tinh thần thuận lợi hơn nhận thức về sự vật. Đối với Heidegger – dưới ảnh hưởng tư tưởng của Nietszche – giả định này là thơ ngây v́ bản thân cũng như tha nhân đối với tôi c̣n không-được-hiểu-biết hơn cả đối với bất kỳ hiện tượng thiên nhiên nào. Trong SuZ chương IV viết về hiện-hữu-với (Mitsein) và Tại-thể-với (Mitdasein) Heidegger chỉ ra hữu thể luận về nhận thức không phải bắt đầu với những suy tưởng về Mitsein mà phải từ hữu-tại-trong-thế-giới (In-der-Welt-sein): vấn đề nhận thức chuyển từ trục tri thức luận sang hữu thể luận. Có thể nói, với Heidegger, nhận thức thiết yếu là phóng chiếu (Entwurf). V́ vậy nhận thức trước hết phải được mô tả không như sự kiện của ngôn ngữ, viết, hay bản văn mà như “quyền lực hiện thể” với chức năng trước hết là định hướng hoàn cảnh, nắm bắt khả tính của hữu. Áp dụng vào thông diễn luận từ đó ta có thể suy ra: hiểu/nhân thức một bản văn không phải là đi t́m ư nghĩa-không-có-đời-sống (lifeless sense) trong bản văn  nhưng là lần mở khả tính của hữu được chỉ ra trong bản văn. Với Heidegger, thông diễn đi theo trật tự: hoàn cảnh-nhận thức-diễn giải cho nên con đường trở lại tri thức luận đă bị loại bỏ ngay từ khởi điểm.

   Như chúng ta đă biết, các khoa học nhân văn đặt cơ sở tri thức luận trên cặp chủ thể-đối tượng, Nhưng trên thực tế mối liên hệ của cặp này không hoàn toàn tách rời mà hàm chứa nhau: chủ thể đi vào nhận thức đối tượng nhưng đối tượng cũng lại đặt dấu ấn trên chủ thể trong tiến tŕnh chủ thể nhân thức đối tượng. Như vậy đây là một diễn tŕnh ṿng tṛng quẩn quanh (vicious circle). Như trên đă nói, tham vọng của Heidegger trong việc đi từ hữu thể luận khi thông diễn để chỉ ra những nền tăng hữu thể luận ngầm chứa bên dưới phương pháp của các khoa học nhân văn, chức năng của một hữu thể luận nền tảng là để chỉ ra cấu trúc ṿng tṛn nơi cấp độ phương pháp. Heidegger gọi cấu trúc này là tiền-nhận-thức, nhưng tiền nhận thức không thể được giải thích theo lư thuyết về nhận thức. Về ṿng tṛn thông diễn vốn là quẩn quanh, theo Heidegger, không phải là “t́m cách ra khỏi ṿng tṛn này mà là đi vào đó cho đúng cách/đường” (SuZ 153; BT 195). Để kết luận nhận định của ḿnh về thông diễn luận của Heidegger trong La tâche de l’herméneutique Paul Ricoeur viết: “Với triết lư của Heidegger, chúng ta măi măi dấn ḿnh vào việc quay trở lại với những nền tảng, nhưng chúng ta lại bị bỏ rơi bất lực trong việc khởi đầu chuyển dịch trở về từ hữu thể luận nền tàng tới vấn đề tri thức luận đích thực về tư cách/địa vị của những khoa học nhân văn.” (H&H 59). Ricooeur cũng đưa ra phê phán: triết lư của Heidegger v́ đă hoàn toàn phá bỏ đối thoại với các khoa học cho nên không đối thoại với bất cứ thứ ǵ khác ngoài với chính nó. Và để chứng minh được rằng,  những vấn đề của giải minh văn bản (exegesis), hay nói một cách tổng quát hơn, phê b́nh có tính cách lịch sử, là tùy thuộc [vào hữu thể luận nền tảng] th́ chỉ có thể bằng cách đi ngược trở lại [từ hữu thể luận sang tri thức luận] mà thôi. “Chừng nào mà sự tùy thuộc này chưa được cứu xét th́ chính chuyển động siêu vượt/nghiệm hướng về những vấn đề/câu hỏi nền tảng vẫn c̣n đó. Phải chăng chúng ta đă không học hỏi được ǵ từ Plato khi Plato cho rằng biện chứng theo chiều đi lên cao là dễ dàng nhất, và rằng chính dọc theo con đường biện chứng đi xuống mới cho thấy kẻ nào là triết gia đúng nghĩa. Với tôi, vấn đề chưa được giải quyết trong công  tŕnh của Heidegger là: làm sao cho vấn đề/câu hỏi của phê b́nh nói chung có thể được cứu xét trong khuôn khổ của một thông diễn luận nền tảng.”

(c̣n tiếp)  

đào trung đąo

 

http://www.gio-o.com/DaoTrungDao.html

 

©gio-o.com 2012