đào trung đạo
Thông Diễn Luận
của
Martin Heidegger
Kỳ 1, Kỳ 2, Kỳ 3, Kỳ 4, Kỳ 5, Kỳ 6, Kỳ 7, Kỳ 8, Kỳ 9, Kỳ 10, Kỳ 11, Kỳ 12, Kỳ 13, Kỳ 14 Kỳ 15, Kỳ 16, Kỳ 17, Kỳ 18, Kỳ 19, Kỳ 20, Kỳ 21, Kỳ 22, Kỳ 23, Kỳ 24, Kỳ 25, Kỳ 26, Kỳ 27, Kỳ 28, Kỳ 29, Kỳ 30, Kỳ 31, Kỳ 32, Kỳ 33, Kỳ 34, Kỳ 35, Kỳ 36, Kỳ 37, Kỳ 38, , Kỳ 39, , Kỳ 40, Kỳ 41, Kỳ 42, Kỳ 43, Kỳ 44, Kỳ 45, Kỳ 46, Kỳ 47, Kỳ 48, Kỳ 49, Kỳ 50, Kỳ 51, Kỳ 52, Kỳ 53, Kỳ 54, Kỳ 55, Kỳ 56, Kỳ 57, Kỳ 58, Kỳ 59, Kỳ 60, Kỳ 61, Kỳ 62, Kỳ 63, Kỳ 64, Kỳ 65, Kỳ 66, Kỳ 67, Kỳ 68, Kỳ 69, Kỳ 70, Kỳ 71, Kỳ 72, Kỳ 73, Kỳ 74, Kỳ 75, Kỳ 76, Kỳ 77, Kỳ 78, Kỳ 79, Kỳ 80, Kỳ 81, Kỳ 82, Kỳ 83, Kỳ 84, Kỳ 85, Kỳ 86, Kỳ 87, Kỳ 88, Kỳ 89, Kỳ 90, Kỳ 91, Kỳ 92, Kỳ 93, Kỳ 94, Kỳ 95, Kỳ 96, Kỳ 97, Kỳ 98, Kỳ 99, Kỳ 100, Kỳ 101, Kỳ 102, Kỳ 103, Kỳ 104, Kỳ 105, Kỳ 106, Kỳ 107, Kỳ 108, Kỳ 109, Kỳ 110,
Ṿng tṛn thông diễn theo Heidegger là một lộ tŕnh tự bản chất không có kết thúc, là một ṿng tṛn có bề ngoài có vẻ như một ṿng luẩn quẩn, nhưng vấn đề không phải là t́m cách tránh sự luẩn quẩn “không phải là t́m cách thóat ra khỏi ṿng nhưng là đi vào đúng đường” SuZ/GA 2, trang 153, bản dịch của Marquarrie & Robinson trang 194). V́ công việc thông diễn bắt đầu từ am hiểu rồi được tiếp nối bằng diễn giải để rút ra sự hiểu biết (am hiểu ở cấp độ cuối cùng, và diễn giải đặt nền tảng trên am hiểu, nhưng trong am hiểu đă ngầm chứa “ư nghĩa” cho nên ư nghĩa là yếu tố kết nối, khớp (Gegliederte) am hiểu với diễn giải. Khi sự hiểu biết có được do rút ra từ diễn giải dĩ nhiên nó cũng có một ư nghĩa. Nhưng theo Heidegger ư nghĩa này “không thể được định nghĩa như như một thứ xảy ra ‘trong’ phán đoán cùng lúc với hành vi phán đoán.”(GA 2,154). V́ am hiểu là một cách thế hiện hữu của Hiện thể nhưng cách thế này lại là hiểu “ngầm”, không cần (nên không được) minh bạch hóa mà được “hiểu như” (as). Yếu tố “như” này là cốt lơi của việc chúng ta hiểu biết mọi sự vật trong thế giới sống. Nhưng về mặt luận lư, khi ta khẳng quyết một điều ǵ, sự khẳng quyết này lại phát sinh từ, tùy thuộc vào sự diễn giải kiểu “như là”. Để giải thích sự “hiểu ngầm” tính chất “không được làm rơ/bạch hóa” này Heidegger bằng cách dựa trên sự phân biệt hai h́nh thức của “như”: như-đề quyết (apophantical/propositional as) và như-thông diễn (hermeneutical as). Một phán đoán, đề/khẳng quyết được phát biểu thật ra bắt nguồn từ “như” thông diễn vốn vẫn thao tác trong việc hiện hữu của Hiện thể trong thế giới. (Cf: GA 2,§33, Logik: Die Frage nach der Wahrheit GA 21, §12). Lấy một thí dụ cho dễ hiểu: khi ta đi qua một cái cửa để vào một căn pḥng, chúng ta đă ngầm hiểu cái cửa “để làm ǵ” rồi, chúng ta hiểu cái cửa “như” một phương tiện để vào ra mà chẳng phí hơi phí lời nói ra điều này. Cấu trúc-như (as-structure) này không cần được cho một thuộc tính nên không phụ thuộc vào việc cho thuộc tính (predication). Phân tích này có tầm quan trong ra sao trong thông-diễn-luận? Như trên đă nói, cấu trúc-tiền (fore-structure) của am hiểu được Heidegger diễn giải là mức độ tiền-thuộc tính của hiện sinh. Tương hợp với cấu trúc này là cấu trúc như-thông diễn. Khi thông diễn một văn bản, nếu áp dung quan niệm này của Heidegger, ta có thể đào/vươn tới cái tiền am hiểu hay cái nằm đằng sau những ǵ được nói ra viết ra, nghĩa là đụng tới được cái hồn, cái thần trí của chữ. Điều quan trọng hơn nữa là Heidegger muốn chứng minh am hiểu thông diễn vốn đă nằm xâu trong Quan tâm/Ưu tư (Sorge). Thế nên sự quan tâm/ưu tư về văn chương, theo chúng tôi là cốt tủy của thông diễn, phê b́nh văn chương.
Thông-diễn-luận của Heidegger nhằm vươn tới và nắm bắt những cái tiền (tiền-sở-hữu /Vorhabe/, tiền-thị/Vorsicht/, và tiền-niệm/Vorgriff), toàn thể những giả định (Voraussetzungen) đó cũng chính là những tố hợp tạo nên hoàn cảnh thông diễn, không là ǵ khác hơn chính là nơi chốn hay điểm khởi hành rơ rệt của việc hỏi (Fragen) của câu hỏi về Hữu. Đó là cách giải thích thông-diễn-học triết lư nhằm xây dựng hữu thể học nền tảng của Heidegger. Nếu ta chuyển những lư giải này sang phạm vi văn chương, đặt cơ sở cho một thông diễn luận văn chương, ta thấy hoàn cảnh thông diễn cũng bao gồm những giả định tương tự, v́ một trong những cách thế hiện hữu của Hiện thể là Ngôn từ và Ngôn từ cũng là hữu của Hiện thể cho nên khởi điểm của thông-diễn-luận văn chương là từ hoàn cảnh thông diễn t́m cách tiếp cận và soi sáng những cái nằm đằng sau những phát biểu, lời nhận định chính là cái thần trí và linh hồn được bày tỏ trong chữ. Quan niệm thông diễn luận này đặc biệt quan trọng khi ta phê b́nh văn chương, nhất là thơ.
Toàn bộ quan niệm của Heidegger về nhận thức và diễn giải thông-diễn-luận đều xoay quanh khái niệm Sorge/Quan tâm/Ưu tư, trên hết là hiện thể sống trong thế giới quan tâm/ưu tư về Hữu. Nhận thức thông diễn, sự hiểu biết qua thông diễn luận vốn nằm sẵn, gắn cứng trong cấu trúc-quan tâm/ưu tư của Hiện thể. Thế nhưng mối quan tâm quan trọng nhất của Hiện thể là khám phá Hữu, hiểu thấu những khả thể của ḿnh khi hiện hữu trong thế giới. Theo nghĩa này, một nhà phê b́nh văn chương, trên nền tảng thông-diễn-luận, trước hết phải minh thị mối quan tâm của ḿnh tới văn chương, qua mối quan tâm này khi phê b́nh tác phẩm văn chương đă phải có sẵn, nh́n thấy trước, quan niệm được trước văn chương là ǵ, từ đấy khám phá nắm bắt cái thần trí và linh hồn của chữ nghĩa. Cái tiền-am hiểu, tiền-quan niệm về văn chương này không phải là một cái ǵ cố định, không thể thay đổi. Ngược lại, chính v́ làm công việc phê b́nh, nhà phê b́nh nhận ra được những quan niệm khác, những khả hữu khác của văn chương nên có cơ hội mở rông tầm nh́n, kiến thức, làm giàu thêm sự hiểu biết về văn chương của ḿnh. Làm được theo đúng nghĩa như vậy tức là nhà phê b́nh đồng thời cũng t́m đến được những khả tính của văn chương (Hữu của Hiện thể văn chương=tác phẩm) và những khả tính của Hữu-phê-b́nh-gia (Hữu của Hiện thể=nhà phê b́nh). Dĩ nhiên nhà phê b́nh chỉ hoàn thành được nhiệm vụ này nếu như nhà văn, kẻ hoàn thành tác phẩm, cũng có cùng một nhận thức và nỗ lực. Đó là qua chữ nghĩa phát biểu được cái thần thái, linh hồn của Hiện thể-Nhà văn để hướng tới Hữu-Nhà văn, thử nghiệm những khả tính của Hữu-Văn chương để phơi mở Hữu nói chung. Đây là mối liên hệ hai chiều đi lại trong ṿng tṛn thông diễn. Có lẽ chỉ có một khác biệt duy nhất giữa người sáng tác và nhà phê b́nh là ở chỗ, trong việc thực hiện một trong những khả tính của văn chương theo quan niệm của riêng ḿnh bằng tác phẩm, tuy cũng đă trải qua thao tác thông diễn trong lộ tŕnh bất tận của ṿng tṛn thông diễn luận khi thai nghén và thực hiện tác phẩm, nhà văn không làm công việc khái quát trừu tượng việc chỉ ra Hữu của Hiện thể-Văn chương của tác phẩm và của bản thân, để nhiệm vụ này cho nhà phê b́nh. Mối quan hệ lư tưởng này xem ra chỉ thấy ở những tác giả, tác phẩm văn chương đụng tới được vấn đề khả hữu của văn chương cũng như khả hữu của nhà văn. Tất nhiên tất cả những tác phẩm văn chương cũng như những tác giả ở lại được với văn chương v́ đă, qua tác phẩm, thể hiện được một h́nh thái văn chương khả hữu và một diện mạo tác giả khả hữu. Chỉ khi nào tiến hành được điều này một tác phẩm mới là một tác phẩm văn chương và một người viết mới là một nhà văn/thơ đúng nghĩa. Cho nên tất cả các tác phẩm và tác giả văn chương ở lại được với Văn chương đều là những thử nghiệm nhằm thực hiện một cái Bất Khả là chính Văn chương, chỉ ra Hữu-Văn chương ẩn hiện trong những khả thể, và những khả thể này muôn đời bị Cái chết như một thảm họa đe dọa tiêu hủy. Ở tận cùng của vấn đề, tác giả bằng tác phẩm dự vào trận đồ bạo động của chữ, chụp bắt Hữu và xua đuổi, trốn chạy, vượt qua cái Chết (một hành động bất khả). Viết phê b́nh văn chương tức là chỉ ra những phát biểu, những phán đoán về sự khả hữu của văn chương qua việc thông diễn (am hiểu và diễn giải) một tác phẩm văn chương của một tác giả đồng thời qui chiếu về Chân trời Khả hữu Văn chương.
Đào Trung Đạo
(c̣n tiếp)