đào trung đo 

Thông Din Lun Triết  Hc

của 

 

Martin Heidegger

(4)

 

Kỳ 1,  Kỳ 2,  Kỳ 3,  Kỳ 4,  Kỳ 5,  Kỳ 6, Kỳ 7, Kỳ 8, Kỳ 9, Kỳ 10, Kỳ 11, Kỳ 12, Kỳ 13, Kỳ 14 Kỳ 15, Kỳ 16, Kỳ 17, Kỳ 18, Kỳ 19, Kỳ 20, Kỳ 21, Kỳ 22, Kỳ 23, Kỳ 24, Kỳ 25, Kỳ 26, Kỳ 27, Kỳ 28, Kỳ 29, Kỳ 30, Kỳ 31, Kỳ 32, Kỳ 33, Kỳ 34, Kỳ 35, Kỳ 36, Kỳ 37, Kỳ 38, , Kỳ 39, , Kỳ 40, Kỳ 41, Kỳ 42, Kỳ 43, Kỳ 44, Kỳ 45, Kỳ 46, Kỳ 47, Kỳ 48, Kỳ 49, Kỳ 50, Kỳ 51, Kỳ 52, Kỳ 53, Kỳ 54, Kỳ 55, Kỳ 56, Kỳ 57, Kỳ 58, Kỳ 59, Kỳ 60, Kỳ 61, Kỳ 62, Kỳ 63,  Kỳ 64,  Kỳ 65Kỳ 66, Kỳ 67, Kỳ 68, Kỳ 69, Kỳ 70, Kỳ 71, Kỳ 72, Kỳ 73, Kỳ 74, Kỳ 75, Kỳ 76, Kỳ 77, Kỳ 78, Kỳ 79, Kỳ 80, Kỳ 81, Kỳ 82, Kỳ 83, Kỳ 84, Kỳ 85, Kỳ 86, Kỳ 87, Kỳ 88, Kỳ 89, Kỳ 90, Kỳ 91, Kỳ 92, Kỳ 93, Kỳ 94, Kỳ 95, Kỳ 96,  Kỳ 97, Kỳ 98,  Kỳ 99,  Kỳ 100,  Kỳ 101, Kỳ 102,  Kỳ 103, Kỳ 104, Kỳ 105,  Kỳ 106, Kỳ 107,  Kỳ 108, Kỳ 109, Kỳ 110, 

 

Trong chiều hướng thông diễn Hiện thể trong Chương 3 & 4 (Chương 4 quảng diễn thêm Chương 3) quyển Ontologie: Hermeneutik der Faktizität, sau khi đă định rơ đối tượng của thông diễn luận là từ phân tích Hiện thể để đi t́m Hữu và đưa ra định nghĩa am hiểu và diễn giải, có lẽ đây là lần sớm sủa nhất Heidegger đưa ra khái niệm Destruktion (giải cấu/hủy triệt/diệt) hiểu như việc thu tập, thông diễn lịch sử triết học nhằm vượt qua Siêu-h́nh-học Tây phưong, trong trường hợp này là giải cấu/hủy triệt tư tưởng “hôm nay” về Hiện thể trên hai chủ đề: (1) Hiện thể được diễn giải trong ư thức lịch sử ở thời điểm đặc biệt hôm nay và: (2) Hiện thể được diễn giải trong triết lư ở thời điểm đặc biệt hôm nay. Phép destruktion/giải cấu này sẽ được Heidegger dùng lại trong tiết 6, Phần II của Chương Dẫn Nhập quyển Sein und Zeit “Nhiệm vụ của một  Giải cấu/triệt hủy Lịch sử Hữu thể luận”.

   Coi ư thức lịch sử như một tiêu biểu diễn giải của hữu-được-diễn-giải ở  thời điểm đặc biệt hôm nay theo chuẩn mực là cách thế một thời điểm quan nhận và tra hỏi quá khứ (của Hiện thể bản thân hay Hiện thể của tha nhân), trụ trên đó và duy tŕ hay vứt bỏ quá khứ này, là một chỉ dấu của hiện tại đối diện chính nó như thế nào, của  tại-hữu hiện hữu trong “tại” của nó. Chính chuẩn mực này cũng chỉ là một biểu hiện của đặc tính nền tảng của kiện tính mà thôi. Heidegger nhận thấy quan điểm nh́n quá khứ này thấy rơ trong những khoa học xă hội đương đại đă tự biến thành con đường trên đó kinh nghiệm lịch sử làm cho cuộc sống quá khứ có thể tiếp cận được, đối tượng hóa quá khứ, coi quá khứ lịch sử là một cái đă hoàn thành, quá khứ lịch sử này đă được quan nhận theo một cách thế và được biện luận trên một quan điểm cố định. Quá khứ trở thành  một phạm vi các đối tượng khoa học. Hiện thể quá khứ trong tư cách đối tượng được nắm bắt như “sự biểu lộ ra ngoài” của chủ quan tính phóng ngoại, đời sống của một nền văn hóa được ép cứng vào một dạng thức trong những diễn tŕnh đối-tượng-hóa này và sau cùng được coi như phong cách của một thời. Văn hóa như thế được coi như một cơ chế, có một đời sống hữu cơ tự trị: xuất hiện, bừng phát, và tàn lụi. Cung cách nh́n quá khứ kiểu này hiện giờ (hiểu là những năm 20s ở Âu châu) thấy rơ nhất trong tư tưởng của Oswald Spengler. Tuy khen ngợi Spengler là người đầu tiên đă đưa ra được một cách nh́n quá khứ có tính cách luận lư và ưu việt, là người tiên phong, can đảm bất chấp hậu quả trong việc mô tả hiện thực những khả hữu rơ rệt t́m thấy trong nguồn gốc và sự phát triển của ư thức lịch sử hiện đại, nhưng Heidegger đặt câu hỏi : quá khứ một khi đă được đối tương hóa và có cái hữu của những biểu hiện, th́  từ đó sẽ xuất hiện mô thức lư thuyết nhận thức, minh giải, và triển khai quá khứ nào? Khi đă trở thành “biểu hiện” tức là có sự thay thế dùng cái này để bày tỏ một cái ǵ khác cũng có nghĩa là đă triệt hủy cái hiện tại, tức là thời gian tính.

      Sang đến chủ đề thứ hai: hữu-được-diễn-giải ra sao trong triết lư hôm nay, Heidegger không nêu rơ triết lư hay triết gia nào mà chỉ muốn đưa ra một phân tích nhằm tiến tới một đánh giá thông diễn luận (hermeneutical assessment) về những bộ môn triết học truyền thống như đạo đức học, triết học lich sử, tâm lư học v.v…Theo Heidegger khi ta coi triết lư như một mô thức diễn giải Hiện thể kiện tính tức là ta căn cứ  trên một tính chất h́nh thức nào đó của chính triết học truyền thống vốn theo khuynh hướng đặt cho ḿnh nhiệm vụ định nghĩa toàn thể những hữu (totality of beings) trong các phạm vi khác nhau, với nhũng loại ư thức riêng của mỗi phạm vi, và thống nhất bao trùm cả hai vào những nền tảng tối thượng là những nguyên lư. Tuy nh́n nhận triết học truyền thống tuy không nói rơ nhưng những vấn đề được thảo luận, đưa ra diễn ngôn, đều bao hàm đời sống con người nh́n từ một quan điểm nào đó. Cho nên điều quan trọng là đọc từ triết học truyền thống để xem  triết học truyền thống đă nắm bắt cái ǵ của Hiện thể của đời sống như thể đă được quan niệm từ trước, nghĩa là đă tùy thuộc vào một quan điểm hướng dẫn chủ đạo. Heidegger chỉ ra trong việc diễn giải hữu triết học truyền thống khi cứu xét toàn thể các hữu đă thiết lập những tương quan phân hạng các hữu và “tính chất tương quan” đă được đẩy tới cùng mức và trở thành một đối tượng riêng biệt. Tính chất tương quan này vượt lên trên thời gian, và như vậy Hiện thể đă bị tước bỏ tính cụ thể ở thời điểm đặc thù”(jeweils) và trong một “hoàn cảnh” lịch sử những “phạm trù” là những sinh hiện (Exitenzialien/existentials) trong đó đời sống thực sự, hiểu như “hữu khả” (Mőglichsein/being-possible) rộng mở và vô lượng đang hiện hữu (trong chốc lát ở một thời điểm đặc thù) và “thông dịch” hữu của khả hữu đó cùng với hữu của thế giới . Tuy không chỉ rơ ra, chúng ta cũng thấy được Heidegger muốn phê phán triết lư thời bấy giờ vẫn c̣n mang nặng dấu ấn Hegel, kể cả Kierkegaard là người ông nêu đích danh. Heidegger cũng phê phán kịch liệt khuynh hướng nối kết hiện tượng luận với biện chứng pháp đang thời thượng nhằm đạt được tính chất khách quan, gọi khuynh hướng này là “chủ nghĩa Plato của những kẻ mọi rợ” v́ họ đă không nắm được cỗi rễ tư tưởng của Plato.

   Để kết thúc Chương 3 này Heidegger tóm lược đề tài diễn giải Hiện thể trong tại hữu của nó trong thời khoảng ở một thời điểm nào đó và nhiệm vụ của việc diễn giải này đưa ra để quan nhận, có một cái nh́n, và hiểu chủ đề này trong cách thế sao cho, trong chính nó, những đặc tính cơ bản của hữu của Hiện thể được làm nổi rơ. Heidegger nhấn mạnh: “Hiện thể không phải là một “sự vật” như một miếng gỗ, cũng không phải là một vật như cái cây – cũng không gồm những kinh nghiệm, và càng không phải là một chủ thể (một ego) đứng đối nghịch với một đối tượng (không phải là ego). Hiện thể là một hữu riêng biệt (Seindes) , chính trong chừng mực nó “tại hữu” cho chính nó trong một cách thế công chính, không phải là một đối tượng.” Trong lịch sử và ttriết học, Hiện thể nói vế chính minh một cách trực tiếp hay gián tiếp, điều này có nghĩa Hiện thể có sự am hiểu về chính ḿnh và tiếp tục làm rơ từng chi tiết trong những mô thức như đă được diễn giải theo một cách thế nào đó. Cho nên câu hỏi đich thực của thông diễn luận nay là: đặc tinh nào của hữu của Hiện thể xuất hiện trong những mô thức của chính tự hữu của Hiện thể một cách khách quan, không tùy thuộc một quan điểm nào.

   Kết thúc Chương 4 Heidegger đề nghị thêm những nhiệm vụ của Thông-diễn-luận: đưa Hiện thể kiện tính ra cứu xét, nh́n kỹ, và có được một sự am hiểu tính chất của hữu của Hiện thể. Tương ứng với điều này, lộ tŕnh tiến tới của phân tích thông diễn luận được vạch ra trước, và ṭ ṃ như hiện tượng căn bản cần được khám phá một cách quyết định: (1) như chuyển động của chính Hiện thể; (2) ṭ ṃ như một chuyển động trong cách thế như thể Hiện thể “là” chuyển động đó “có” tại hữu trong chuyển động. Nghĩa là những đặc tính của hữu-được-diễn giải có thể được phơi mở như những phạm trù của Hiện thể (những sinh hiện/Exitenzialien/existential); (3) làm sáng tỏ hiện tượng nền tảng của “ở đó” và đưa ra một sự định tính có tính cách phạm trù-hữu thể luận của tại hữu của Hiện thể; và (4) trở lại khởi điểm ban đầu và đặt câu hỏi thông diễn luận: vậy th́, Hiện thể trong tư cách như thế đó, có phải ở đó cho chính bản thân trong hai mô thức diễn giải đă nêu trên (ư thức lịch sử và triết lư đương thời), và đâu là đặc tính của hữu của Hiện thể t́m thấy trong cách thế của hữu-tại-đó-trong-một-cách-thế-như-vậy?

   Trước khi đi xa hơn trong việc t́m hiểu sự h́nh thành thông diễn luận của Heidegger, thiết tưởng cần “dừng chân nghỉ ngơi” và rà xét hai điểm quan trọng của thông diễn luận là “am hiểu” và “diễn giải” xem quan niệm của Heidegger diễn tiến ra sao. Chủ đề “am hiểu” chúng tôi sẽ tŕnh bày sau. Về “diễn giải”, vấn đề “ṿng tṛn thông diễn” cần được xét đến trước.

   Như chúng ta thấy trong Ontologie: Hermeneutik der Faktizität , lộ tŕnh “ṿng tṛn thông diễn” của Heidegger khá phức tạp. Để hiểu quan niệm của Heidegger về “ṿng tṛn thông diễn” cách tốt nhất là trở lại với quyển Sein und Zeit. Heidegger ngay từ phần Dẫn Nhập của Sein und Zeit (trang7-8) đă nhận rơ khi phân tích Hiện thể để t́m về ư nghĩa của Hữu là đă giả thiết Hữu, Hữu có ư nghĩa, nhưng khởi điểm lại là Hiện thể, lộ tŕnh lư luận ṿng tṛn này có vẻ như đi vào một circulus vitiosus/ṿng luẩn quẩn, nhưng thực ra: “ ‘Lư luận xoay ṿng’ không diễn ra trong câu hỏi về ư nghĩa của hữu. Đúng hơn, ở đây có một “tương-hệ lui và tới” giữa cái được tra hỏi (hữu) với sự tra hỏi như là một cách thế của hữu của một hữu (asking as a mode of being of a being). Cái cách điều được tra hỏi thiết yếu đẩy sự tra hỏi của chúng ta tham dự vào thuộc về ư nghĩa nội tại của vấn đề/tra hỏi hữu. Nhưng điều này chỉ có nghĩa rằng cái hữu có tinh chất của Hiện thể có một mối quan hệ với chính câu hỏi về hữu, có lẽ đó c̣n là một câu hỏi đặc biệt nữa. Nhưng có phải chúng ta cũng đă chứng minh rằng một hữu đặc thù có một ưu tiên đối với hữu và rằng cái hữu được lấy làm thí dụ đó có chức năng như là cái được tiên khởi tra vấn là một cái ǵ đă được cho trước?” Tới Chương V của Phần I Sein und Zeit ở trang 152 Heidegger giải thích về “ṿng tṛn thông diễn luận” chi tiết hơn trong dịp giải thích ư nghĩa của diễn giả Hiện thể nhằm tránh diễn giải của ḿnh bị coi là không khoa học v́ không khách quan. Không phủ nhận lư luận của ḿnh là ṿng vo nhưng Heidegger không cho đó là “ṿng luẩn quẩn” v́ “Nếu như thấy sự luẩn quẩn trong cái ṿng này và t́m cách tránh nó, ngay cả để “cảm thấy” rằng đó là một sự bất toàn không thể tránh khỏi, tức là đă hiểu lầm sự am hiểu từ một vị thế bên trên.” Không tránh ṿng tṛn, Heidegger cho rằng phải “đi vào ṿng tṛn đúng lối” v́ “Cái ṿng tṛn của am hiểu không phải là một ṿng  tṛn trong đó bất cứ một loại kiến thức nào đó cũng hoạt động, nhưng đúng ra là sự biểu tỏ của sinh hiện tiền-cơ-cấu (Vor-Struktur) của chính Hiện-thể. Ṿng tṛn này không phải bị hạ cấp xuống thành một sự luẩn quẩn, ngay cả cho rằng đó là một sự luẩn quẩn có thể dung thứ được cũng không đúng.” Nói cách khác “Cái ṿng tṛn trong am hiểu thuộc về cấu trúc của ư nghĩa, và hiện tượng này được ăn xâu trong sự tạo lập sinh hữu của Hiện thể, trong am hiểu diễn giải. Hữu (số nhiều) trong cách thế hữu-trong-thế-giới quan tâm về chính hữu của chúng có một cấu trúc hữu-thể-luận của một ṿng tṛn. Thế nhưng, nếu chúng ta lưu ư rằng cái “ṿng tṛn” thuộc về một loại hữu của hiện diện khách quan (Bestehen) về mặt hữu-thể-luận, th́ một cách tổng quát chúng ta sẽ phải tránh định tính một cái ǵ đó giống như Hiện thể  theo cách hữu-thể-luận với hiện tượng này.” Để kết luận, trong phần IV bàn về “Thời gian tính và hàng-ngày-tính”, tiết 63 “Hoàn cảnh thông diễn…” Heidegger vạch rơ: “Chúng ta đă chỉ ra, trong cấu trúc của am hiểu nói chung, cái bị cho là lỗi lầm bằng một từ không thích đáng “ṿng tṛn”, là thuộc về yếu tính và sự đăc thù của chính am hiểu. Tuy nhiên, cuộc khảo sát của chúng ta giờ đây phải quay trở lại một cách minh bạch về luận cứ “ṿng tṛn” này nếu như vấn nạn về hữu-thể-luận nền tảng phải có hoàn cảnh thông diễn được làm rơ.” Kế tiếp Heidegger luận giải rằng trong phân tích sinh hiện một ‘ṿng tṛn’ trong chứng cớ là không thể  tránh được bởi v́ phân tích đó hoàn toàn không cung cấp bất kỳ cái ǵ theo những quy tắc của luận lư về nhất quán cả.

(c̣n tiếp)

 

 

 

Đào Trung Đạo