đào trung đąo

Thông Din Lun

Martin Heidegger

(61)

                                

Kỳ 1,  Kỳ 2,  Kỳ 3,  Kỳ 4,  Kỳ 5,  Kỳ 6, Kỳ 7, Kỳ 8, Kỳ 9, Kỳ 10, Kỳ 11, Kỳ 12, Kỳ 13, Kỳ 14 Kỳ 15, Kỳ 16, Kỳ 17, Kỳ 18, Kỳ 19, Kỳ 20, Kỳ 21, Kỳ 22, Kỳ 23, Kỳ 24, Kỳ 25, Kỳ 26, Kỳ 27, Kỳ 28, Kỳ 29, Kỳ 30, Kỳ 31, Kỳ 32, Kỳ 33, Kỳ 34, Kỳ 35, Kỳ 36, Kỳ 37, Kỳ 38, , Kỳ 39, , Kỳ 40, Kỳ 41, Kỳ 42, Kỳ 43, Kỳ 44, Kỳ 45, Kỳ 46, Kỳ 47, Kỳ 48, Kỳ 49, Kỳ 50, Kỳ 51, Kỳ 52, Kỳ 53, Kỳ 54, Kỳ 55, Kỳ 56, Kỳ 57, Kỳ 58, Kỳ 59, Kỳ 60, Kỳ 61,

 

Karl-Otto Apel: Jürgen Habemas (sinh năm 1929) và Karl-Otto Apel (sinh năm 1922) là hai triết gia Đức nổi bật nhất từ thập niên 70s. Cả hai triết gia Đức này có thể được coi là đại diện cho trào lưu khởi đầu bắc nhịp cầu giữa nền triết học đại lục Âu châu với nền triết học phân tích và thực dụng luận Anh-Mỹ từ sau bước ngoặt ngữ học (linguistic turn). Trong khi Habermas được chú ư nhiều ở những xứ dùng Anh ngữ th́ Apel lại có ảnh hưởng lớn ở Âu-châu và Châu Mỹ La-tinh. Tác phẩm quan trọng nhất của Apel, magnum opus Transformation der Philosophie/Chuyển hóa Triết học cho đến nay chưa có bản dịch toàn bộ sang Anh ngữ, bản dịch Pháp ngữ Transformation de la philosophie mới được xuất bản năm 2007. Một trong những lư do Habermas được biết đến nhiều ở Mỹ v́ số đông những giáo sư đại học Mỹ có khuynh hướng thiên tả. Hơn nữa sách của Apel nặng tính chất hàn lâm, là tổng hợp của ba nguồn: triết học Tây-Âu (nhất là tư tưởng của Heidegger), triết học phân tích (Wittgenstein), chủ thuyết thực dụng Mỹ (C.S. Peirce), và phần nào triết học trường phái Franfurt của Adorno và Horkheimer  nên khó nắm bắt. Thời gian cùng giảng dạy ở đại học Franfurt am Main Habermas và Apel đă từng hợp tác trong dự án h́nh thành một lư thuyết về hành động thông giao (communicative action) và đạo đức tranh biện (discourse ethics) nhưng sau đó có sự bất đồng quan điểm về cơ sở của thông giao (communication) nên Habermas tách rời và đi theo đường riêng.

   Apel chịu ảnh hưởng Heidegger nhưng ảnh hưởng này có tính chất đối thoại, phản biện và tổng hợp trong suốt nhiều thập niên từ năm 1950 khi Apel viết luận án tiến sĩ với đề tài Dasein und Erkennen. Ein erkenntnistheorische Interpretaiton der Philosophie Martin Heidegger/Tại thể và tri thức. Một diễn giải tri thức luận về triết lư của Martin Heidegger. Luận án này không bao giờ  được Apel cho xuất bản. Quyết định không xuất bản luận án thời trẻ này của Apel xét ra là một quyết định đúng đắn v́ nếu càng đọc kỹ Heidegger ta càng thấy rơ Heidegger không phải là một triết gia của nhận thức/tri thức như chính lời Heidegger đă nói với Richard E. Palmer sau khi nghe buổi thuyết  tŕnh cuối cùng Von Hegel bis Heidegger của Gadamer năm 1962. Từ sau luận án tiến sĩ Apel không viết riêng một quyển sách nào về Heidegger mà chỉ tŕnh bày cũng như phản biện tư tưởng của Heidegger (cũng như Wittgenstein) trong khung khổ dự án đầy tham vọng biến đổi, chuyển hóa triết học tŕnh bày trong Transformation der Philosophie cho nên để hiểu rơ ư kiến của Apel về tư tưởng Heidegger chúng ta cần biết sơ lược dư án này của Apel như thế nào.

   Một cách khái quát, dự án chuyển hóa/biến đổi triết học của Apel gồm hai giai đoạn. Trong giai đoạn thứ nhất là chuyển hóa triết học theo đường hướng của thuyết thực dụng siêu nghiệm. Giai đoạn thứ nh́ là ứng dụng khuôn thức siêu nghiệm này để triển khai một đạo đức học mới dưới h́nh thức một đạo đức học về tranh biện và một đạo đức học về trách nhiệm. Tuy nhiên như trong bài Tựa của Transformation der Philosophie Apel cũng đă lưu ư nguời đọc rằng cụm từ “chuyển hóa triết học” có chứa đựng một sự hàm hỗn v́ cụm từ này một mặt đặt tên cho một sự chuyển biến xảy ra trong sự phát triển của triết học, nhưng mặt khác lại cũng để chỉ cái dự án có tính chất hệ thống của ông (Apel). Như vậy, tựa đề tác phẩm này chỉ ra, trong toàn cảnh lịch sử triết học, sự biến đổi đă được nhận ra trong triết học thế kỷ XX ở việc đặt chủ điểm trên ngôn ngữ. Trong tác phẩm này Apel tập trung vào ba trào lưu với ba đại diện là Wittgenstein, Heidegger, và Pierce. Về Wittgenstein, Apel xét giai đoạn đầu với tác phảm Tractatus khai nguồn cho triết học phân tích Wittgenstein đă cho ngôn ngữ chức năng sản xuất ra cấu trúc luận lư của thế giới, ở giai đoạn hai với Investigations philosophiques Wittgenstein đưa ra lư thuyết về tṛ chơi ngôn ngữ, việc sử dụng ngôn ngữ được coi như đan kết với những dạng thức của đời sống. Heidegger tiêu biểu cho trào lưu thứ nh́: tái tạo diện mạo triết học dưới h́nh thức một thông diễn luận triệt để qua ngả biến đổi hiện tượng luận hợp cùng thông diễn luận truyền thống. Apel  căn cứ nhiều đến Sein und Zeit đă chỉ ra phóng chiếu của con người là khả hữu nhờ tiền am hiểu/nhận thức nằm trong diễn ngôn. Tuy nhiện, từ sau Sein und Zeit, Heidegger đă đào xâu suy tưởng về truyền thống triết học cổ Hy Lạp và về cội nguồn của ngôn ngữ nhất là ngôn ngữ thơ. Trào lưu thứ ba với Charles Sanders Peirce, người sáng lập ra chủ thuyết thực dụng Mỹ, đặt trọng tâm nghiên cứu trên mối liên hệ trung gian (médiation) không thể tránh khỏi giữa những dấu chỉ (signes) và mở đường cho một triết học kư hiệu (philosophie sémiotique). Theo Apel, chính chủ thuyết thực dụng của Peirce đă cho phép ta theo một cách thức nào đó thiết lập được mối tương quan giữa triết học phân tích của Wittgenstein  với triết học của Heidegger, chứng cứ ta có thể t́m thấy ảnh hưởng của ba trào lưu này trong triết học của Richard Rorty và Thomas Kuhn vào những năm 70s. Chuyển hóa triết học của Apel nói chung là một làm mới nghiên cứu triết học theo hướng kư hiệu học siêu nghiệm. Theo gót Heidegger, Apel làm một cuộc duyệt xét lịch sử triết học để chỉ ra rằng tư tưởng triết học luôn giả thiết những qui tắc có trước sự am hiểu triết gia có về điều ḿnh suy nghĩ và muốn phát biểu. Thế nên, đúng như Heidegger thường nhấn mạnh, cần ḥa điệu những quan điểm triết học khác nhau với tất cả những công tŕnh của con người có bản chất thông diễn. Việc duyệt xét những triết gia chính yếu trong lịch sử triết học của Apel vừa có tính lịch sử vừa có tính hệ thống để t́m ra những quan điểm của riêng ḿnh được Apel đặt tên là “tái tạo”: đọc các triết gia đi trước không để b́nh luận hay phê b́nh, nhưng đọc để t́m ra chỉ dẫn có tính chất kư hiệu – Heidegger gọi là chỉ dẫn h́nh thức - của những triết gia quan trọng trong lịch sử triết học.

   Chúng ta sẽ đọc Apel nói về những đóng góp của Heidegger cho triết học qua những bài viết sua đây: Wittgenstein và Heidegger: vấn đề ư nghĩa của hữu và mối nghi ngờ về sự vô nghĩa nhằm chống lại mọi siêu h́nh học Apel đọc ở đại học Kiel năm 1962, Heidegger: việc triệt để hóa triết học của “thông diễn luận” và vấn đề “tiêu chí ư nghĩa của ngôn ngữ” viết năm 1968, Chủ nghĩa duy khoa học hay thông diễn luận siêu nghiệm? Vấn đề chủ thể của diễn giải những dấu hiệu trong khoa kư hiệu học của thuyết thực dụng, Apel đọc tại hội nghị triết học Bắc Âu năm 1969, Việc tạo dựng ư nghĩa và việc biện chính tính chất giá trị vững chắc: Heidegger và vấn đề triết học siêu nghiệm viết năm 1989, và sau hết là bài So sánh giữa Wittgenstein và Heidegger: tổng phê b́nh và phụ lục viết năm 1991. Tất cả những bài này đều được thu tập trong bộ Transformation der Philosophie quyển II. Như trên đă nói tuy Apel coi Sein und Zeit là tác phẩm chính trong việc đọc và phê b́nh Heidegger nhưng cứ nh́n niên biểu và trích dẩn của những bài viết kể trên ta cũng có thể nhận ra không phải Apel đă bỏ sót những tác phẩm giai đoạn Heidegger II. Chỉ có điều đáng chú ư là quyển Beiträge zur Philosophie (Vom Ereignis) – tác phẩm được coi là quan trọng thứ nh́ sau Sein und Zeit của Heidegger– măi năm 1989 (một trăm năm sau ngày sinh của Heidegger, 50 năm sau khi tác phẩm được hoàn tất) mới được xuất bản trong bộ Gesamtausgabe và hầu như không thấy Apel nhắc tới hay trích dẫn Beiträge ngay cả trong bài So sánh giữa Wittgenstein và Heidegger: tổng phê b́nh và phụ lục viết năm 1991.

   (c̣n tiếp)  

đào trung đąo

 

http://www.gio-o.com/DaoTrungDao.html

 

©gio-o.com 2012