đào trung đąo

Thông Din Lun

Martin Heidegger

(57)

 

Kỳ 1,  Kỳ 2,  Kỳ 3,  Kỳ 4,  Kỳ 5,  Kỳ 6, Kỳ 7, Kỳ 8, Kỳ 9, Kỳ 10, Kỳ 11, Kỳ 12, Kỳ 13, Kỳ 14 Kỳ 15, Kỳ 16, Kỳ 17, Kỳ 18, Kỳ 19, Kỳ 20, Kỳ 21, Kỳ 22, Kỳ 23, Kỳ 24, Kỳ 25, Kỳ 26, Kỳ 27, Kỳ 28, Kỳ 29, Kỳ 30, Kỳ 31, Kỳ 32, Kỳ 33, Kỳ 34, Kỳ 35, Kỳ 36, Kỳ 37, Kỳ 38, , Kỳ 39, , Kỳ 40, Kỳ 41, Kỳ 42, Kỳ 43, Kỳ 44, Kỳ 45, Kỳ 46, Kỳ 47, Kỳ 48, Kỳ 49, Kỳ 50, Kỳ 51, Kỳ 52, Kỳ 53, Kỳ 54, Kỳ 55, Kỳ 56, Kỳ 57,

 

Trong Hermeneutics and Deconstruction: Gadamer and Derrida in Dialogue/Thông diễn luận và Hủy tạo: Gadamer và Derrida trong cuộc Đối thoại gửi cho Gadamer trước khi cho phổ biến Dallmayr sau khi ca ngợi việc Gadamer đă phối hợp đối thoại với thông diễn luận – đối thoại ở đây không có nghĩa là một chuỗi những câu nói một ḿnh (soliloquies) nhưng là sự chạm mặt hiện thể (existential encounter)  trong đó có cả can dự lẫn thử nghiệm – lại  tỏ ra không hài ḷng hoặc về sự luôn luôn chao đảo quan niệm  hoặc v́ Gadamer đă nửa vời trong “bước ngoặt hữu thể luận,” chính yếu là trong mối quan hệ giữa tính chất phổ quát của thông diễn luận và  khái niệm thông diễn về “những giới hạn” là “Hai quan điểm Gadamer  dường như Gadamer đồng thời hậu thuẫn  (nhưng không nói rơ về tính chất có thể đứng chung của chúng). Làm thế nào ta có thể vừa lư luận một cách thuyết phục  rằng “sự thừa nhận tính chất phổ quát của thông diễn luận là không thể chối căi” và vừa cho rằng đặc biệt ṿng tṛn thông diễn  hưởng được “tính chất phổ quát thực sự,” và rồi liền sau đó lại thêm vào: “Về phần tôi tôi đă luôn luôn thận trọng  không bao giờ quên rằng những giới hạn ngầm chứa trong kinh nghiệm thông diễn về ư nghĩa. Khi tôi viết rằng ‘hữu khả tri là ngôn ngữ’ tôi có ư nói rằng khi nói hữu chẳng bao giờ được hiểu rơ một cách hoàn toàn.” (Dallmayr dẫn lời Gadamer). Để trực tiếp trả lời Dallmayr trong đoạn văn trên Gadamer lư luận rằng việc đưa đàm thoại này là thêm một chiều kích vừa có tính chất hữu hạn đồng thời cũng lại có tính chất phổ quát của con người bởi v́ “Sự kiện đàm thoại xảy ra ở bất cứ nơi nào, bất cứ khi nào, và với bất kỳ ai đó khi một cái ǵ đó t́m tới ngôn ngữ - dù cho đó là là một người hay một sự vật, một từ/chữ,  hay một ánh lửa ra hiệu (Gottfried Benn) khác – tạo nên tính chất phổ quát của kinh nghiệm thông diễn. Sự kiện kinh nghiệm này chứa đựng trong chính nó những giới hạn của nó  không v́ vậy trở thành không nhất quán với tính chất phổ quát của nó. Mà hầu như ngược hẳn lại là khác. Tính chất phổ quát của kinh nghiệm thông diễn  hoàn toàn thích hợp với tính chất có giới hạn thực sự của tất cả mọi kinh nghiệm của con người và với những giới hạn cai quản cộng đồng ngôn ngữ và khả tính biểu đạt của chúng ta.” (D&D:95).  Cũng theo Gadamer, khi khẳng định rằng đàm thoại của chúng ta là một sự đàm thoại không bao giờ kết thúc “không có từ/chữ/lời nào là đầu tiên và cuối cùng” cho nên Gadamer cho rằng ḿnh đă hoàn toàn nhất quán trong quan điểm.

  Đáp trả phê phán của Derrida rằng việc Gadamer quay trở lại với đàm thoại  được coi như một cơ sở có tính chất kinh nghiệm (experiential basis) cho thông diễn luận là đă liên hệ với một siêu h́nh học về hiện diện và cũng là một sự tụt lùi vào thuyết chủ ngôn Gadamer trả lời bằng cách nhắc lại việc Heidegger đă phê phán “tính chất hời hợt của người Hy Lạp” do khiếm khuyết về nhăn giới, do lối tư duy chủ yếu tính, do việc nâng cao tầm mức logos trong luận lư của tư tưởng qui chiếu [Logik der Apophansis] và ta có thể coi đó là thuyết chủ ngôn cho nên Gadamer đồng ư với Heidegger trong việc loại bỏ thứ chù thuyết này. Cho rằng ḿnh đă trung thành với phê b́nh của Heidegger về chủ thuyết duy ngôn nên Gadamer quay sang trách cứ Derrida “Thế nhưng khi tiếp tục nói về phê b́nh thuyết chủ ngôn của Heidegger th́ chính phê b́nh này lại cũng là một thuyết chủ ngôn, theo quan điểm của tôi, là một ngộ nhận về tính cách huyền nhiệm của từ/chữ. Từ/chữ là cái một người nói ra và người khác hiểu. Vậy làm sao sự hiện diện lại đóng một vai tṛ nào trong việc này? Có ai lại là kẻ nghe chính lới ḿnh nói? Và ai là kẻ hiểu cái mà ḿnh chỉ nghe thấy? Ở đây, theo tôi dường như Derrida, trong phê b́nh khá chính xác quyển Nghiên cứu Luận lư của Husserl và ư niệm Kundgabe [làm cho một cái ǵ đó được biết đến]của Husserl – như được triển khai trong quyển sách khá hay La voix et le phenomena/Tiếng nói và hiện tượng của ḿnh – th́ Derrida đă để cho chính ḿnh bị kéo đến việc đưa ra lời qui tội không đúng. Và điều này có những hậu quả đáng tiếc cho việc tiếp cận Heidegger và thông diễn luận của ông ta. (D&D:95)

   Cũng theo Gadamer, nếu ta vượt ra ngoài dạng thức đàm thoại của ngôn ngữ sống tức là quay lùi trở lại những dạng thức bị thu giảm của khoa kư hiệu học.  Và chính điều này đă dẫn Derrida tới việc khẳng định ưu tiên của viết trên nói/đàm thoại. Trong một bài viết trước đây Gadamer cho rằng Derrida đă đọc Heidegger qua nhăn quan của Husserl.  Để đáp lại quan niệm đặt viết trên nói của Derrida câu trả lời của Gadamer là: “Viết là cái ǵ nếu không phải là để được đọc? Chắc chắn tôi chia sẻ với Derrida sự tin tưởng rằng một bản văn giờ đây không c̣n tùy thuộc vào một ác giả hay ư hướng của tác giả nữa”. Thế nên tính cách tự lập của bản văn không c̣n là một vấn đề nhưng vấn đề nằm ở chỗ việc hiểu phải chăng là hiểu lời nói, và khi nói tới “hiểu/nhận thức” là đă rơi vào siêu h́nh học của sự hiện diện hay không. Gadamer tiếp tục nhấn mạnh rằng một bản văn nói lên: “”Ngay cả có như vậy đi nữa th́ [cùng với việc độc lập của bản văn đối với tác giả] tôi chỉ đọc một bản văn với sự hiểu biết khi những con chữ không chỉ được giải mă nhưng khi bản văn bắt đầu cất tiếng, và điều này có nghĩa khi bản văn được đọc với giọng trầm bổng, những biểu lộ, những chỗ nhấn mạnh… thích hợp. Tôi thực sự muốn biết sự hiểu biết/nhận thức – và với sự hiểu ngầm, đọc với nhận thức – có ăn nhập ǵ với siêu h́nh học hay không.” (D&D:96) Phát biểu này của Gadamer rơ ràng nhất quán với những mô tả kư hiệu học coi nhận thức như là hoạt động sản xuất.

   Trong Thư gửi Dallmayr này Gadamer cũng lập lại nhiều điểm liên quan tới Heidegger như đă tŕnh bày trong bài Destruktion und Dekonstruktion như “ngôn ngữ của siêu h́nh học”, Nietszche, và cho rằng ḿnh đă trung thành với Heidegger tuy bị phê phán trong việc đưa biện chứng Hegel vào thông diễn luận tức là quay trở về với siêu h́nh học v.v…Nhưng điểm chính yếu ở đoạn cuối bức thư Gadamer lư luận về việc từ chối đă dùng ngôn ngữ của siêu h́nh học. Gadamer viết: “Để trả lời cho việc này tôi muốn đặt câu hỏi: “Ngôn ngữ của siêu h́nh học” được cho có nghĩa là ǵ? Thực sự có một thứ ǵ như thế không?” (D&D:98) Kế đó Gadamer kể lại thưở đầu học với Heidegger và sự xuất hiện khái niệm Destruktion/Giải cấu cũng như việc ḿnh không theo gót Heidegger trong sách lược này và đặt câu hỏi “Nhu cầu đặc biệt nào đă khiến ông ta [Heidegger] thực hành Destruktion?” Và mặc dù Gadamer đă t́m cách thực hiện xuyên suốt phê b́nh của Heidegger về những ư niệm hiện đại, nhưng lại không thể đồng ư về khái niệm “ngôn ngữ của siêu h́nh học” được v́: “Tôi đă học được tử Heidegger trẻ “Begrifflichkeit” (tư tưởng trong và xuyên qua ư niệm) là ǵ và tư tưởng có nghĩa là ǵ. Trên hết thảy, tôi đă học để thấy được sự tự-tha hóa (self-alienation) đă ngầm chứa trong truyền thống ư niệm của tư tưởng hiện đại là bao nhiêu. Thế nên khi tôi đến với Heidegger, tôi lập tức đă cảm thấy bị cuốn hút bởi cái cảm hứng chủ đạo của Destruktion…nhưng tôi đă không thể nối gót Heidegger, hay bất kỳ người nào khác, khi họ nói đến “ngôn ngữ của siêu h́nh học,” “ngôn ngữ đúng của triết học,” hay cái ǵ tương tự như vậy. Đối với tôi, ngôn ngữ luôn đơn giản chỉ là cái chúng ta nói với người khác và hướng về người khác…” (D&D:98) Xa thêm một bước Gadamer cho rằng Destruktion hay Dekonstruktion là một diễn tiến nhập hoạt với những ư niệm chứ không là một “ngôn ngữ.” Heidegger đă hoàn tất qua ngả hủy tạo ư niệm đối tượng và chủ thể, ư niệm Hy Lạp về thực thể, và ư niệm hữu của Hy Lạp chỉ lả hủy tạo của “tính chất ư niệm siêu h́nh học” chứ không phải là “ngôn ngữ của siêu h́nh học.” bởi lẽ siêu h́nh học không hề có một ngôn ngữ nào khác hơn là ngôn ngữ sống chúng ta nói. Giải cấu của Heidegger không phá hủy những ư niệm mà là cho chúng cất tiếng. Gadamer viết: “Chẳng ai mà không thấy được rằng ngôn ngữ con người của chúng ta nói luôn luôn tạo h́nh trước cho tư duy của chúng ta?...Trong Heidegger chữ Destruktion không bao giờ có nghĩa phá hủy nhưng đúng ra có nghĩa tháo gỡ [Abbau]. Mục dích của giải cấu là đem những ư niệm đă trở thành cứng nhắc và không c̣n đời sống và đổ đầy lại ư nghĩa cho chúng….Mục tiêu của Destruktion là để cho các ư niệm lại cất tiếng trong tính chất đan kết của nó với ngôn ngữ sống động. Đó là nhiệm vụ của thông diễn luận.” (D&D:99-100) Và như thế Destruktion không đối nghịch với thông diễn luận. Để kết luận Gadamer đặt câu hỏi: “Tôi không thấy tại sao – đối với Nietszche và với chính Derrida – hủy tạo lại có thể có nghĩa sự khinh miệt lịch sử [triết học Tây phương]. Gadamer cho rằng cả Heidegger và Derrida đều khinh bỉ truyền thống. Nhưng lời trách cứ này có công bằng không? Thật ra Gadamer đă vô t́nh hay cố ư hiểu khác đi ư của Heidegger khi nói đến “ngôn ngữ của siêu h́nh học.” Đúng ra Heidegger khi dùng cụm từ này là để chỉ ra những tính chất ư niệm siêu h́nh học đă điều kiện hóa ư nghĩa về thời gian, về hữu, về sự vật, về công tŕnh nghệ thuật….của chúng ta. Đối với Derrida cũng vậy v́ hủy tao là một sách lược đi ngay vào trong, nằm ngay ở trong những văn bản và những ư niệm của lịch sử triết học truyền thống và, một cách thật kiên tŕ, giải phóng chúng ta ra khỏi những tinh chất ư niệm “chủ ngôn”, làm cuộc đối thoại hủy tạo với những bản văn điển phạm  trong truyền thống.

(c̣n tiếp)

đào trung đąo

 

http://www.gio-o.com/DaoTrungDao.html

 

©gio-o.com 2012