đào trung đąo
Thông Diễn Luận
Martin Heidegger
(58)
Kỳ 1, Kỳ 2, Kỳ 3, Kỳ 4, Kỳ 5, Kỳ 6, Kỳ 7, Kỳ 8, Kỳ 9, Kỳ 10, Kỳ 11, Kỳ 12, Kỳ 13, Kỳ 14 Kỳ 15, Kỳ 16, Kỳ 17, Kỳ 18, Kỳ 19, Kỳ 20, Kỳ 21, Kỳ 22, Kỳ 23, Kỳ 24, Kỳ 25, Kỳ 26, Kỳ 27, Kỳ 28, Kỳ 29, Kỳ 30, Kỳ 31, Kỳ 32, Kỳ 33, Kỳ 34, Kỳ 35, Kỳ 36, Kỳ 37, Kỳ 38, , Kỳ 39, , Kỳ 40, Kỳ 41, Kỳ 42, Kỳ 43, Kỳ 44, Kỳ 45, Kỳ 46, Kỳ 47, Kỳ 48, Kỳ 49, Kỳ 50, Kỳ 51, Kỳ 52, Kỳ 53, Kỳ 54, Kỳ 55, Kỳ 56, Kỳ 57, Kỳ 58,
Paul Ricoeur (1913-2005): Ảnh hưởng của Heidegger trên Ricoeur có tính chất gián tiếp nhiều hơn trực tiếp v́ Ricoeur cho rằng triết lư Heidegger “quá rộng.” Hơn nữa ảnh hưởng này chỉ rơ nét ở giai đoạn thứ ba trong lộ tŕnh tư tưởng của Ricoeur. Ở giai đoạn thứ nhất có thể kể từ những năm 30s cho đến những năm cuối 40s từ khi c̣n học chương tŕnh cao học ở Sorbonne Ricoeur đă gắn bó với triết lư của Gabriel Marcel và Karl Jaspers [đồng tác giả với bạn tù Mikel Durenne của quyển Karl Jaspers et la philosophie de l’exixtence, 1947]. Thời gian này ở Pháp chủ nghĩa hiện sinh và hiện tượng luận Husserl – đại diện tiêu biểu của hiện sinh hữu thần là Gabriel Marcel và hiện sinh vô thần là J-P. Sartre – bao trùm bầu không khí văn học Pháp tất nhiên đă dẫn Ricoeur vào lộ tŕnh tư tưởng hiện sinh thời thượng. Ngay những năm sau khi chiến tranh chấm dứt Ricoeur đă hoàn tất bản dịch quyển Ideen I của Husserl. Nhưng vào năm 1948 khi được một ghế giảng dạy lịch sử triết học ở đại học Strasbourg mỗi năm Ricoeur chuyên tâm nghiên cứu từng triết gia lớn của triết học Tây phương từ Plato, Aristotle, đến Kant, Hegel, Nietszche…để viết giáo tŕnh nên không c̣n quan tâm tới triết học hiện sinh và hiện tượng học hiện sinh nữa mà chuyển hướng nghiên cứu triển khai triết học phản tư, sử dụng phương pháp hiện tượng luận của Husserl hoàn thành dự án triết lư phản tư nhằm phơi mở chủ quan tính chân thực qua phản tư về những phương tiện t́m hiểu hiện hữu nhất là qua ư chí. Kết quả của dự án đầy tham vọng này là quyển thứ nhất Le volontaire et l’involontaire và quyển thứ hai Finitude et culpabilité gồm hai tập L’Homme infaillible và La Symbolique du mal. Ricoeur dự định sẽ hoàn tất dự án này bằng một nghiên cứu về “thi pháp về ư chí” là quyển chót nhưng đă bỏ dở khi được về Sorbonne giữ chức khoa trưởng khoa triết học tổng quát năm 1957. Đây cũng là mốc dấu chuyển hướng lộ tŕnh tư tưởng bước sang giai đoạn thứ nh́. V́ không khí trí thức Paris lúc bấy giờ đang sôi nổi với thuyết cấu trúc và phân tâm học của Freud nên một lần nữa ta không ngạc nhiên khi thấy Ricoeur đă bị cuốn hút vào không khí tranh biện này và kết quả đă cho ra mắt hai tác phẩm Essai sur Freud và Le conflit des interpretations: Essais d’herméneutique. Có thể nói đây cũng là bước đầu Ricoeur đi vào thông diễn luận. Tuy Ricoeur cùng với bạn tù Mikel Dufrenne đă đọc Husserl và Heidegger từ khi c̣n là tù nhân chiến tranh ở Đức trong những năm 30s nhưng phải đến năm 1973 khi trở lại giảng dạy ở đại học Nanterre và thỉnh giảng ở đại học Chicago đồng thời cũng vừa được bổ nhiệm điều khiển Centre d’études phénoménoligiques et herméneutiques ở Paris thông diễn luận mới thực sự trở thành chủ đề nghiên cứu chính của Ricoeur cho nên Heidegger cùng với Hans-Georg Gadamer mới được chú tâm nhiều. Có thể nói từ những năm 70s cho đến 2005 là năm Ricoeur tạ thế là giai đoạn thứ ba. Một lư do nữa của chuyển hướng lộ tŕnh xoay qua thông diễn luận của Ricoeur có thể v́ trong thời gian giảng dạy ở Mỹ Ricoeur đă có dịp tiếp cận nhiều và sống trong bầu không khí của triết học phân tích Anh-Mỹ, đọc những triết giaphân tích như Ludwig Wittgenstein, J.L. Austin, R.G. Collingwood, E.D. Hirsch, C.S. Peirce, P.F. Strawson…
Heidegger được Ricoeur nhắc tới rải rác trong nhiều tác phẩm nhưng đầy đủ và rơ ràng nhất là trong hai bài thuyết tŕnh La tâche de l’herméneutique/Nhiệm vụ của thông diễn luận và Herméneuticque et critique des ideologies/Thông diễn luận và phê b́nh những hệ tư tưởng (in trong quyển Exegesis: Problèmes de méthode et exercices de lecture (do Francois Bovon và Grégoire Rouiller biên tập nxb Neuchatel: Delachaux et Niestlé ấn hành năm 1975.). Phản biện chính Ricoeur đưa ra cho thông diễn luận của Heidegger là: “Với triết lư của Heidegger, chúng ta luôn luôn dấn nhập vào việc trở lại với những nền tảng, nhưng chúng ta lại bị bỏ rơi không thể nào có thể khởi đầu chuyển dịch đi ngược từ hữu thể luận nền tảng quay về vấn đề có tính chất riêng của tri thức luận về địa vị (status) của những khoa học nhân văn.” (Bản Anh văn The Task of Hermeneutics của John B. Thompson in trong Paul Ricoeur: Hermeneutics & The Human Sciences, [H&HS]Cambridge University Press 1981, trang 59.) Ricoeur một lần nữa nhắc lại vấn đề này trong Herméneuticque et critique des idéologies: “Kể từ Heidegger trở đi, thông diễn luận hoàn toàn dấn nhập vào việc quay về với những nền tảng, một chuyển động dẫn từ vấn đề tri thức luận liên quan tới những điều kiện của sự khả hữu của những khoa học nhân văn về hướng cơ cấu hữu thể luận của nhận thức. Tuy nhiên câu hỏi có thể được đặt ra là con đường quay trở lại từ hữu thể luận trở lại tri thức luận có khả thi không. Lư do v́ chỉ bằng cách qua ngả này ta mới có thể xác nhận sự khẳng định rằng những vấn đề của phê b́nh b́nh giải-lịch sử (exegetico-historical critique) là “do đó mà ra/có gốc ở” đó, và rằng ṿng tṛn thông diễn, trong ư nghĩa của kẻ b́nh giải, được “đặt cơ sở” trên cấu trúc tiên đoán/liệu (anticipatory) của nhận thức.. Thông diễn học hữu thể luận dường như không có khả năng, v́ những lư do cấu thức, mở ra con đường cho vấn nạn quay trở về này. Chính trong công tŕnh của Heidegger, vấn đề bị bỏ rơi ngay khi được đặt ra. Như trong Sein und Zeit/Hữu và Thời ta đọc thấy: “Trong ṿng tṛn của nhận thức…có ẩn chứa một khả hữu tích cực thuộc loại nguyên ủy nhất của hiểu biết. Chúng ta chi nắm lấy khả hữu này một cách chính thực được khi, trong diễn giải (Auslegung) của chúng ta, chúng ta đă hiểu được rằng, nhiệm vụ đầu tiên và cuối cùng và măi măi của chúng ta không bao giờ cho phép tiền-hữu, tiền-kiến,và tiền-niệm được bày ra trước chúng ta bởi những điều tưởng tượng ra (Einfalle) và bởi những quan niệm b́nh dân (Volksbegriffe), nhưng đúng ra là phải làm cho chủ đề khoa học được vững vàng bằng cách giải đáp những tiên đoán/liệu này trong quan hệ với chính những sự vật.” (SZ 153; BT 195) (H&HS 88) Một cách đơn giản vấn đề Ricoeur đặt ra cho thông diễn luận của Heidegger là: nếu như ta chấp nhận lộ tŕnh của Heidegger là từ thông diễn luận để tới hữu thể luận là chính đáng nhưng tại sao Heidegger đă không đưa ra được những chỉ dẫn để ta có thể đi ngược từ hữu thể luận trở về tri thức luận? Để hiểu được vấn đề của Ricoeur như nêu trên chúng ta cần đặt vấn đề này trong truyền thống thông diễn luận Đức, ít ra là từ Schleiermacher cho đến Dilthey, với nan đề (aporia) trung tâm là sự đối nghịch giữa diễn giải và nhận thức.
(c̣n tiếp)
đào trung đąo
http://www.gio-o.com/DaoTrungDao.html
©gio-o.com 2012