đào trung đąo

3-Zero

±± triết học ±± lư thuyết văn chương ±± phê b́nh văn chương

≤≤ cùng một khác

(57)

 

 Kỳ 1, Kỳ 2, Kỳ 3, Kỳ 4, Kỳ 5, Kỳ 6, Kỳ 7, Kỳ 8, Kỳ 9, Kỳ 10, Kỳ 11, Kỳ 12, Kỳ 13, Kỳ 14, Kỳ 15, Kỳ 16, Kỳ 17, Kỳ 18, Kỳ 19, Kỳ 20, Kỳ 21, Kỳ 22, Kỳ 23, Kỳ 24, Kỳ 25, Kỳ 26, Kỳ 27, Kỳ 28, Kỳ 29, Kỳ 30, Kỳ 31, Kỳ 32, Kỳ 33, Kỳ 34, Kỳ 35, Kỳ 36, Kỳ 37, Kỳ 38, Kỳ 39, Kỳ 40, Kỳ 41, Kỳ 42, Kỳ 43, Kỳ 44, Kỳ 45, Kỳ 46, Kỳ 47, Kỳ 48, Kỳ 49, Kỳ 50, Kỳ 51, Kỳ 52, Kỳ 53, Kỳ 54, Kỳ 55, Kỳ 56, Kỳ 57, 

 

Blanchot coi Trung tính như một quyền năng làm ngừng lại, làm ư nghĩa vắng mặt, như câu trả lời cho sự bất khả và như vậy theo Bident trung tính không thể thu giảm vào sự thăng hoa (sublimation) v́ trung tính giữ nguyên chuyển động không ngưng nghỉ của hủy thể, tức là những hậu quả tội lỗi, đáng xấu hổ, nh́n trộm của người thứ ba như trong các bản viết của Kafka, Bataille, và Duras, hay những hậu quả sát nhân, hư vô, làm cho người khác đau khổ trong những mô tả thế giới trại tập trung của Robert Antelme trong quyển L’Espèce humaine như Blanchot viết: “ ‘Mỗi khi câu hỏi: Tha nhân là ai? hiện ra trong ngôn ngữ của chúng ta, là tôi nghĩ đến quyển sách của Robert Antelme, bởi v́ quyển sách này không chỉ là một việc làm chứng về cái xă hội của những trại tập trung, nhưng nó c̣n đưa chúng ta đến một sự phản tư thiết yếu. Tôi không nói rằng ở đó có một câu trả lời đă được viết ra, nhưng cái đẩy chúng ta tới tác phẩm này, dù không kể đến những năm tháng hay những cảnh ngộ (nhưng không thể không kể đến), cái c̣n lại ở đó chính là sức mạnh tra hỏi của nó trong sự tra vấn. Bằng một cách đọc như thế, chúng ta bắt đầu hiểu được rằng con người là thứ không thể hủy diệt được và tuy thế nó lại có thể bị phá hủy. Điều này xảy ra trong sự khốn cùng. Trong khốn cùng, chúng ta tiến gần tới cái giới hạn nơi đó, không c̣n có quyền năng để nói “Tôi”, cũng không c̣n có thế giới, chúng ta sẽ không là ǵ khác hơn cái Kẻ Khác mà chúng ta không là.” (1) Việc gặp gỡ kết thân của Blanchot với Antelme và đọc quyển L’Espèce humaine có tính cách quyết định cho những câu hỏi, vấn đề về Tha nhân Blanchot bấy lâu suy nghĩ và cũng đưa đến việc Blanchot trở lại với chính trị từ đầu thập niên 60. Blanchot muốn giải thích rơ hơn về ư nghĩa quyển sách của Antelme: “Tôi muốn nói thêm rằng ư nghĩa của quyển sách này với chúng ta hiện giờ phải hiện ra rơ hơn. Đó không phải là, như tôi đă nói, đó không chỉ là một sự chứng kiến về thực tại của một trại giam, cũng không phải là tương quan lịch sử, cũng không phải là một tự truyện. Rơ rệt là, đối với Robert Antelme, và chắc chắn đối với rất nhiều người khác nữa, kể lại, chứng kiến, đó không phải là điều quan trọng, nhưng thiết yếu là nói lên: bằng cách cho sự diễn đạt cho lời nói như thế nào? Chính xác cái lời nói trung thực ở đó “Tha nhân”, vốn bị ngăn cản bày tỏ trong suốt thời gian ở những trại giam, cuối cùng có thể chỉ có nó được đón nhận mà thôi và đi vào sự hiểu biết của con người,” (2) và “Bằng một cách đọc như thế, chúng ta bắt đầu hiểu ra rằng con người là thứ không thể bị hủy diệt thế nhưng  nó lại có thể bị hủy diệt. Điều này xảy ra trong tai họa. Trong tai họa, chúng ta tiếp cận giới hạn này [không thể bị hủydiệt/có thể bị hủy diệt] ở chỗ, khi chúng ta không có quyền nói “Tôi”, không có cả thế giới nữa, chúng ta sẽ không c̣n là ǵ khác hơn cái Kẻ Khác không phải là chúng ta.”(3) Bident nhận xét: “Trung tính như vậy chỉ ra việc trốn tránh được sự hủy diệt cũng như tội lỗi trong mỗi trường hợp đều là một phép mầu và một sự cần thiết.”(4) Như trong bản văn của Kafka, Bataille, Duras, Antelme cho thấy đối diện với chuyển động của hủy thể viết không phải là bôi đen, phủi sạch hay trung tính hóa sự thật nhưng là bày ra, biểu đạt, đưa lên sân khấu cái chuyển động này, và quan trong hơn hết là không phát hiện vén mở (révélation), làm lộ nó ra để truy t́m những điều kiện khiến cho chuyển động này khả hữu. Văn chương hôm nay không phát hiện như văn chương cổ điển vẫn quan niệm, ngược lại để có thể khả hữu th́ văn chương hôm nay phải là đối kháng (contestation) theo Blanchot. Trong không gian văn chương của sự đối kháng này bản văn kêu gọi một thứ người đọc tích cực, không thụ động nhận lănh bản văn như quan niệm về người đọc trước đây, người đọc tích cực này – Blanchot gọi là “invisible partenaire/đồng hành vô h́nh”(5) Người đọc kẻ đồng hành vô h́nh này cũng là cái tên gọi của sự thiếu thốn/hụt vốn dĩ của mọi ngôn ngữ như vậy cũng là cái tên của sự cầu viện tới một siêu ngôn ngữ, siêu ngôn ngữ này rất có thể cung cấp sự đo lường mọi sự làm vắng mặt (absance), làm ngừng lại, đ̣i hỏi một ngôn ngữ thứ ba để có thể hiện ra giữa “mot-trou/từ,chữ thiếu, lủng” và “mot de trop/từ,chữ thừa thăi”, chính ngôn ngữ thứ ba này tạo nên rồi lại ngay sau đó truất phế kẻ đồng hành vô h́nh.(6) Trong Entretien infini Blanchot nói về người đọc/nghe thứ ba vô h́nh này như sau: “Họ vào chỗ ngồi, chia cách nhau bởi một cái bàn, người này không quay mặt về phía người kia, nhưng lại mở ra, quanh cái bàn ngăn cách họ, một khoảng cách khá rộng để cho một người khác nữa có thể tự coi ḿnh như một người làm trung gian, là kẻ để họ sẽ nói với, như thể chính họ nói với người này: Xin thứ lỗi về việc đă mời ông đến gặp tôi. Tôi có vài điều muốn nói với ông đấy, nhưng hiện tại tôi cảm thấy mệt mỏi quá nên tôi e rằng không tŕnh bày nổi.”(7)

 

   Đọc truyện của Blanchot chúng ta có thể thấy Blanchot đặt người đọc vào vị trí ngôi thứ ba: như kẻ nh́n trộm (voyeur) – nh́n trộm với sự ham muốn tách rời người kể truyện với Claudia và Judith trong truyện kể Au moment voulu/ Vào đúng lúc -, như kẻ tham dự đui mù, có mắt nhưng không nh́n (non-voyant) trong Celui qui ne m’accompagnait pas/Kẻ không c̣n kè kè theo tôi, như chứng nhân những cảnh ghen tuông trong Le dernier homme/Kẻ cuối cùng và trong L’Attent l’oubli/Đợi chờ, quên lăng. Người đọc ở ngôi thứ ba này có quyền năng trung tính xuyên suốt những trao đổi giữa các nhân vật truyện kể trong một diễn tiến bị ngưng lại liên hồi rồi tiếp tục lại không dứt. Hắn tham dự vào truyện từ đằng xa bằng chuyển vận thu hút, chỉ điểm, lịch lăm, thúc hối, ngần ngại, bất quyết, tháo lui không trở lại bằng những cử chỉ khi th́ t́nh cờ, lưỡng lự khi th́ quả quyết lúc lại nhạo báng riễu cợt…Bident tóm tắt vai tṛ của người đọc ngôi thứ ba này của Blanchot như sau: “ [đặt người đọc ở vị trí người thứ ba] nhưng như chúng ta đă nói, như một người thứ ba tích cực, không phải được viện dẫn để trám chỗ trong truyện, nhưng đúng ra là để đo lường sự nhận biết có thể của bất cứ truyện nào, qua một thi pháp tỉnh lược, ngừng ngắt, đoạn rời, bất trắc, nghịch lư, bất toàn,thiếu hụt, triển khai không bị cắt ngang, liên tục bị gián đoạn, diễn giải bất tận, trải dài ma quái, và vấn đáp thinh lặng. Đó là thi pháp tự sự, cuối cùng hối thúc chúng ta đọc và, nói một cách đơn giản, phải xem xét một cách nghiêm chỉnh.(8) Thi pháp trung tính này ẩn chứa khá nhiều điều cần minh giải nhưng cần phải là một công tŕnh đồ sộ và Bident chỉ muốn nhấn mạnh đến tác động có tính cách lịch sử của nó trên triết học lịch sử hay một triết học có quan hệ tới lịch sử, một triết học nằm trên đường chân trời lịch sử.

 

   Trước hết Bident đưa ra nhận xét tác phẩm cả sáng tác lẫn phê b́nh của Blanchot trong hơn ba mươi năm là một nỗ lực không ngừng nghỉ đi t́m những cơ sở cho một đạo đức học. Từ quyển Faux pas (1943) cho tới quyển Le pas au-delà (1973) thi pháp của trung tính được hướng về nỗ lực khám phá quan hệ với thế giới. Bước đầu là làm cuộc cách mạng lật đổ quan niệm cổ điển coi văn chương là khai mở (révélation) để xây dựng quan niệm mới về viết là đối kháng (contestation). Bước kế tiếp Blanchot quan niệm cần có một khoảng cách cần thiết cho việc kiểm điểm tự truyện của ḿnh về con đường đă đi qua để chỉ ra ư nghĩa chính trị và triết lư của kinh nghiệm viết. Bước thứ ba là chuyển vận bất tận của việc nh́n nhận cái trung tính. Bước thứ nhất: Trong La littérature et le droit à la mort Blanchot cho rằng yếu tính của văn chương không phải là phơi mở mà là đối kháng sự kiên định bền bỉ thuần nhất của ngôn ngữ bằng “quyền đối với cái chết”. Chứng cớ Blanchot cho thấy quyển La folie du jour không phải là đưa ra câu truyện về cái chết hay quyển L’espèce humain của Antelme không phải có ư định phơi bày cái chết hay thảm họa. Nhưng hai tác phẩm này đưa ra một cái nh́n chằm chằm (gaze) không chùn bước do kinh nghiệm chống đối và sự may mắn như phép màu được kể lại nên câu truyện về cái chết và thảm họa được kéo ra trong sự trong suốt của sự dàn trải truyện và sự tối tăm của việc đọc. Cái nh́n chằm chằm không lùi bước là để chỉ ra chuyển vận nh́n nhận không có kết thúc. Blanchot nói rơ điều này trong La littérature et le droit à la mort khi cho rằng văn chương xoay chuyển ngôn ngữ thành “chất liệu không bị vây kín lại (sans contour), nội dung không h́nh thức, là một sức mạnh bất chừng và vô ngă không nói lên điều ǵ, không hé lộ điều ǵ, và tự hài ḷng khi tuyên bố - qua việc từ chối không nói điều ǵ hết – rằng văn chương đến từ đêm tối và sẽ trở về với đêm tối.” Thế nên sự đă không nói lên hay thất bại trong việc nói lên điều ǵ này cũng là một sự thỏa ḷng của trung tính qua hành tŕnh đến từ đêm tối và trở về với đêm tối, nghĩa là sự hiện ra này đă được Blanchot diễn giải bằng h́nh ảnh huyền thoại của Orpheus và Lazarus. Sự hiện ra này cung cấp con đường bấp bênh dẫn tới hành vi nh́n nhận (reconnaissance) bất tận. Câu hỏi đặt ra là: nh́n nhận ǵ trong khi không có ǵ được vén mở? Ta có thể t́m thấy câu trả lời của Blanchot trong bài L’Espèce humain/Nhân loại trong quyển Entretien infini nói về kinh nghiệm giới hạn của tù nhân trong những trại tập trung, nhất là giới hạn về lời nói không những giữa tù nhân với cai ngục mà c̣n cả giữa những tù nhân với nhau: “Nói trong khi từ chối, nhưng c̣n tự hạn chế nói. Vậy mà, giờ th́ ta hiểu rằng, cái lời nói giữ lại của tha nhân, không được nghe thấy, không thể tỏ bày, tuy vậy lại không dứt, âm thầm xác định rằng ở đó vắng mắt mọi tương quan, nhưng vẫn tồn tại, ở đó đă bắt đầu mối tương quan con người trong tính chất ưu tiên của nó, chính cái lời nói thực sự vô hạn này, khi trở về với thế giới, mỗi người trong những kẻ đă bị trao cho cái kinh nghiệm không thể là “tha nhân” với chính bản thân, hắn cảm thấy được kêu gọi hiện diện với chúng ta khi nói lên, lần đầu tiên, không chấm hết, không ngưng nghỉ.”(8)  Câu trả lời cho việc nh́n nhận bất tận là “hăy trở thành ‘tha nhân’ cho chính bản thân  (d’être “autrui” pour soi-même)”. Và đó cũng là câu trả lời đạo đức và thẩm mỹ. Là đạo đức v́ nói lên thái độ chung, là thẩm mỹ v́ là một thi pháp (của Antelme trong L’Espèce humaine). Câu nói trên chỉ ra một cách tàn bạo vị trí của đệ tam nhân v́ vấn đề đối với mỗi và mọi tù nhân trong trại tập trung cải tạo là cần phải bất chấp, phớt lờ người khác. Độc giả của quyển sách  nhận ra thi pháp của Antelme trên từng trang sách là sách lược nhằm xô đẩy ḿnh đi đến việc tra hỏi vấn đề về nguồn gốc của lời nói trong trại tù. Nhưng sự hiển nhiên đáng chú ư nhất là việc trung tính hóa cách nói ra lẽ tranh biện của các tù nhân khi “ở đây” được thay thế bằng “ở đó” một cách có hệ thống, trộn lẫn ngôn-hành (speech-act) với cái qui chiếu tới (referent), cho phép việc sử dụng cái chỉ định (deictic) để đặt người đọc vào trung tâm cái thế giới được mô tả. Thi pháp của cái Trung tính này được Antelme mô tả khá rơ trong bức thư gửi cho bạn thiết là Dionys Mascolo (chồng của Duras) bốn hay năm năm sau khi ra khỏi trại tập trung: “Dionys, tôi hẳn muốn nói với bạn rằng tôi không cho rằng t́nh bạn như một thứ tích cực, ư tôi muốn nói như một giá trị; nó c̣n hơn như vậy nhiều, tôi nghĩ về t́nh bạn như một trạng thái, một sự đồng nhất, như thế có nghĩa như một sự nhân bản cái chết, một sự nhân rộng việc tra vấn, là nơi trung tính nhiệm mầu nhất, nơi ta tri giác và cảm nhận sự thường hằng của cái bất tri, nơi mà sự khác biệt trong cái h́nh thức nhạy bén nhất chỉ những cuộc sống – như người ta có thể nói vào lúc ‘chung cuộc của lịch sử’ – và nó chỉ đạt tới tiềm năng đầy đặn ở chính trung tâm của cái đối nghịch với nó nhất – sự cận kề cái chết.”(10) Lời lẽ của Antelme trong đoạn thư trích dẫn này cho thấy t́nh bạn chỉ ra một đạo đức học của ngôi thứ ba. Ảnh hưởng của Antelme trên quan niệm về thi pháp của Trung tính của Blanchot thật rơ ràng, nhất là sau khi hai người gặp nhay vào năm 1958. Và ngược lại Antelme cũng thú nhận chịu ảnh hưởng những truyện kể của Blanchot khi cho rằng sau quyển L’Espèce humaine nếu có viết tác phẩm thứ nh́ th́ tác phẩm này sẽ giống như truyện kể của Blanchot.  

__________________________________

(1)     Maurice Blanchot, Entretien infini trang 191-192: “Chaque fois que la question: “Qui est Autrui?” vient dans notre langage, je pense au livre de Robert Antelme, car ce livre n’est pas seulement un témoignage sur la société des camps, il nous conduit à une réflexion essentielle. Je ne dis pas qu’il y a là, tout écrite, une réponse, sans tenir compte des années ni des cirsconstances (tout en tenant compte cependant), c’est ce qu’il reste de force interrogative dans la question. Par une telle lecture, nous commençons de comprendre que l’homme est l’indestructible et que pourtant il peut être détruit. Cela arrive dans le malheur. Dans le malheur, nous nous approchons de cette limite où, privés du pouvoir de dire “Je”, privés aussi du monde, nous ne serions plus que cet Autre que nous ne sommes pas.

 

  Robert Antelme viết trong quyển sách này: “Tuy vậy không có sự mơ hồ rằng, chúng ta vẫn là những con người, chúng ta chỉ kết thúc đời ḿnh trong tư cách con người…Chính bởi v́ chúng ta là những con người như tụi chúng  thế nên những tên SS dứt khóat sẽ bất lực trước chúng ta…[Tên đao phủ] có thể giết một người, nhưng nó không thể nào thay đổi được người đó thành cái ǵ khác.

 

   Roger Laporte trong bài viết về Blanchot “L’ancien, l’effroyablement ancient” in trong quyển Études (nxb P.O.L 1990) cho rằng khi Blanchot quan niệm chỉ thực sự có văn chương khi người viết đi từ “Je/Tôi” sang “Il/Hắn” nghĩa chữ “Il/Hắn” của Blanchot rất gần với nghĩa chữ “On/Người ta” của Émil Benvénist. V́ Blanchot hiểu “Il/Hắn” là “Quelqu’un/Một người nào đó” không mặt mày diện mạo.

 

(2)     Sđd, 198: Je voudrais ajouter que la signification de ce livre doit à présent nous apparaître mieux. Ce n’est pas, je l’ai dit, ce n’est pas seulement un témoignage sur la réalité d’un camp, ni une relation historique, ni un récit autobiographique. Il est clair que, pour Robert Antelme, et sans doute pour beaucoup d’autres, se raconter, témoigner, ce n’est pas cela qu’il s’est agi, mais essentiellement parler: en donnant expression à quelle parole? Précisément cette parole juste où “Autrui”, empêché de se révéler pendant tout le séjour des camps, pouvait seul à la fin être accuelli et entrer dans l’entente humaine.

(3)       Giải thích câu nói có vẻ nghịch lư “rằng con người là thứ không thể bị hủy diệt và tuy nhiên nó lại có thể bị hủy diệt” Blanchot chỉ ra sự nghịch lư này nằm ở chỗ tuy đó là một sự thật nhưng chúng ta lại không thể biết đó là một sự hiểu biết đúng thực. Thế nên quyển sách của Antelme giúp chúng ta tiến bước trong sự hiểu biết này tuy rằng đó là một sự hiểu biết nặng nề. Nặng nề v́ “Rằng con người có thể bị hủy diệt, điều này chắc chắn là không đảm bảo; thế nhưng, bất chấp hay do bởi điều đó, trong chính cái chuyển vận này, con người vẫn là không thể bị hủy diệt, đó mới là điều thật nhức nhối, bởi chúng ta không thể c̣n có cơ hội nào tự ḿnh thấy ḿnh được yên tâm về chính ḿnh nữa, cũng chẳng yên tâm về trách nhiệm của ḿnh được.”

 

(4)     Christophe Bident, The movement of the Neuter trang 23:It [the Neuter] shows that to escape destruction as well as guilt is on each occasion both a miracle and a necessity.

 

(5)      Maurice Blanchot, Entretien infini, trang 497, Ghi chú số (1) cho bài Le Problème de Wittgenstein:   Ce que dissent Wittgenstein, Flaubert, Roussel: y aurait-il un discours – scientifique, par exemple – tel que le manque ne saurait trouver une place où s’inscrire pour y exercer son effet de défaut, le manque y serait cependant déjà inscrit, ne fût-ce que par la nécessité ou l’exigence d’un autre langage appelé à determiner le sens, la possibilité théorique de ce discours sans manque. Au langage qui lui doit sa perpétuelle défaillance, le manque, à son tour, par le passage infini d’un mode de dire à un autre, doit, même s’il ne se marquait pas dans telle région du discours, d’y atteindre (s’y dispersant alors dans la pluralité mouvante d’une place toujours inoccupée) à la limite un excès de place – “le mot qui est de trop”. C’est peut-être ce “mot de trop” qui constituerait (le destituant aussitôt) l’invisible partenaire – celui qui ne joue pas – par rapport auquel ne cessent de s’écrire les livres de Roger Laporte.

 

(6)        Để hiểu rơ hơn về ‘mot-trou’ và ‘mot de trop’: Flaubert than phiền một cách tuy có vẻ hồn nhiên  nhưng hóa ra quỷ quái về viết văn rằng “có nhiều thứ quá,” “nhưng lại không có đủ những h́nh thức” [để viết ra]. Ở đây Flaubert không có ư định đặt đối nghịch sự phong phú của những thứ không nói ra được với sự nghèo nàn của ngôn ngữ nhưng để đối nghịch một ngôn ngữ này với một ngôn ngữ khác; ngôn ngữ này th́ cố định về nội dung và từ nghĩa c̣n ngôn ngữ kia th́ lại bị thu giảm vào những giá trị h́nh thức và được làm cho cố định trong quyết định chỉ nghĩa thuần túy. Flaubert không thể khẳng định được sự đối lập nằm trong thứ ngôn ngữ nào nói trên nên sử dụng một ngôn ngữ thứ ba, và ở thế thượng phong phán “có nhiều thứ quá,” “nhưng lại không có đủ những h́nh thức” [để nói, viết].(Theo chú thích số 5 của Susan Hanson trong bản dịch The Infinite Conversation, Minesota Unversity Press trang 460)

 

(7)   Maurice Blanchot EI X: ±±  Ils prennent place, separés par une table, non pas tournés l’un vers l’autre, mais dégageant, autour de la table qui les sépare, un assez large intervalle pour qu’une autre personne puisse se considérer comme leur veritable interlocuteur, celui pour lequel ils parleraient, s’ils s’addressaient à lui: “Pardonnez-moi de vous avoir demandé de venir me voir. J’avais quelque chose à vous dire, mais à présent je me sens si fatigué que je crains de ne povoir m’exprimer.

 

(8)   Christophe Bident, The movement of the Neuter trang 25.

 

(9)  Maurice Blanchot, Entretien infini, trang 199: Parler en refusant, mais en réservant de parler. Eh bien, nous le comprenons à présent, cette parole réservée d’autrui, inentendue, inexprimable, incessant cependant, affirmant silencieusement que là où tout rapport manque, subsiste encore, commence déjà la relation humaine dans sa primauté, c’est cette parole vraiment infinie que, revenue dans le monde, chacun de ceux qui avaient été livrés à cette expérience impossible d’être “autrui” pour soi-même, s’est senti appelé à nous représenter en parlant, pour la première fois, sans fin, sans arrêt.

 

(10)    Robert Antelme, thư đề năm 1949 hay 1950 được Dionys Mascolo dẫn trong quyển Autour d’un   

effort  de mémoire (1987)

 

(c̣n tiếp)

đào trung đąo

    http://www.gio-o.com/daotrungdao.html

 

 

 

© gio-o.com 2014