đào trung đąo
3-Zero
± triết học ± lư thuyết văn chương ± phê b́nh văn chương
≤ cùng một khác
(8)
Kỳ 1, Kỳ 2, Kỳ 3, Kỳ 4, Kỳ 5, Kỳ 6, Kỳ 7,
Để kết thúc giảng khóa Barthes đưa ra khái niệm ‘Khoảnh khắc của Sự thật’(Moment de vérité) của việc đọc. Dù cho Barthes tự đồng hóa ḿnh với Proust vả Kẻ tự sự nhưng sự đồng hóa này không thể là tuyệt đối như kinh nghiệm tâm phân đă cho thấy cho nên Barthes đă hai lần bị ‘so le’, trượt chân: lần thứ nhất khi Barthes nhận ra Proust mà ḿnh đồng hóa với hóa ra lại là một “Proust khác” có tên là Marcel, một nhân vật có bộ mặt lạ kỳ vừa là một đứa trẻ vừa là một kẻ trưởng thành không thể thu giảm vào một vị trí nào ở trong hay ở ngoài bản văn. Lần so le, trượt chân ra ngoài, biến đổi xảy ra khi Barthes “như thể” (comme si) là Proust kẻ viết ra quyển À la Recherche v́ khi đó Barthes lại trở thành một “Barthes khác” phải đối diện với cái chết hiện tiền và khao khát một sự tái sinh nào đó để bắt đầu một cuộc đời mới (vita nova) để làm cho mối quan hệ với viết hồi sinh. Cuối cùng Barthes phải bỏ cuộc giả dạng Proust v́ đă chạm tới một giới hạn khi đường ranh giữa thực sự và giả dạng, khởi động và lập lại, kư ức và kinh nghiệm bị xóa bỏ. Đó chính là khi những “khoảnh khắc của sự thật’ xảy ra, khoảnh khắc này là những đỉnh cao của cái riêng biệt (cimes du particulier) không phải là nhận thức (episteme) nhưng là cảm thức (pathos) vô bờ. Barthes cho rằng “‘khoảnh khắc của sự thật’ là không thể giải minh (intraitable) nghĩa là không thể diễn giải, vượt lên, hay lùi lại; T́nh yêu và Cái chết sờ sờ ra đó, đó là tất cả những ǵ người ta có thể nói được. Và đó cũng chính là ngôn từ của haïku”.(1) Để chứng minh ‘Khoảnh khắc của sự thật’ có thể được coi là một khái niệm chứ không chỉ là ấn tượng chủ quan Barthes viện dẫn Diderot và Lessing là những người trước đây từng nói đến khoảnh khắc chửa ph́nh (instant prégnant) nghĩa là sự cô đọng của ư nghĩa chuyên chở cảm xúc và niềm tin của khán giả, và tương tự như thế là gestus trong kịch của Brecht. Barthes cũng biện hộ cho việc coi pathos như ‘sức mạnh của đọc’ (pathos comme force de lecture) có thể dùng làm cơ sở cho tiểu thuyết, theo hướng Nietszche chỉ dẫn ‘đập vỡ thành từng mảnh’ toàn bộ thế giới tiểu thuyết (émietter le “tout” de l’inivers romanesque), không xác định vị trí của yếu tính quyển sách nơi cơ cấu của nó, nhưng ngược lại nh́n nhận rằng tác phẩm gợi ra cảm xúc, tác phẩm sinh tồn và phát triển bởi một sự tan hoang đổ nát (dilapidation) chỉ c̣n để lại một số những khoảnh khắc c̣n đứng vững được tức là những đỉnh cao của nó trong việc đọc một cách sinh động và quan tâm khi lần theo những khoảnh khắc của sự thật tựa như những điểm của giá trị thặng dư của cốt truyện.(2)
Chỉ khi chuyển sang giảng khóa kế tiếp 1979-1980 La Préparation du roman II/L’Œuvre comme volonté/Tác phẩm như ư chí Barthes mới thực sự đi vào chủ đề chính về viết tiểu thuyết. Có thể coi La Préparation du roman I/De la vie à l’œuvre/Từ cuộc đời đến tác phẩm như phần mở đầu của câu chuyện viết tiểu thuyết của Barthes khi ta xét phần này không trên văn tự (écriture) mà trên Lịch sử (lịch/tiểu sử Barthes về sự thất bại viết quyển tiểu thuyết Vita Nova) ngừng lại chỉ ở một chủ đề chính là việc Ghi chú để chuẩn bị viết một quyển tiểu thuyết. (3) Có nhiều hướng, góc độ khi đọc và phê b́nh một tác phẩm, nhất là một tiểu thuyết. Barthes cho rằng có những cách đọc và phê b́nh chính: đọc/phê b́nh Mac-xit như Lukácz và Goldmann, đọc/phê b́nh theo chủ đề như Bachelard, Sartre, Richard, đọc kiểu thuyết cơ cấu hay kư hiệu học như phần đông các nhà phê b́nh theo cấu trúc luận tức là phân tích văn tự (nhưng theo Barthes chỉ có ba người thực sự là cấu trúc luận đúng nghĩa là Dumézil, Lévi-Strauss, và Benvenist) nhưng Barthes cho rằng ngày nay (thập niên 80s thế kỷ trước) một số những cách đọc và phê b́nh này đă “tắt ngấm”, chỉ c̣n lại một số vẫn c̣n rất sung sức với tùy từng cá nhân (phải chăng Barthes tuy không nói rơ nhưng ám chỉ đó là phê b́nh cấu trúc luận và kư hiệu học?) nhưng ở hoàn cảnh nước Pháp hiện nay thiếu hẳn sức mạnh chung, có hệ thống để tổng hợp có ư nghĩa cho việc diễn giải tác phẩm văn học.(4) Chính v́ nhưng nhận định này Barthes trong giáo tŕnh đă từ chối xét đến phê b́nh văn chương. Vậy chúng ta có thể đọc La Préparation du roman theo góc độ nào? Có thể t́m thấy câu trả lời dựa trên ư kiến của Barthes trong việc đọc quyển À la recherche như một tác phẩm khả độc (lisible): về cấp độ diễn ngôn (niveau du discours), văn tự th́ có thể coi quyển tiểu thuyết này là một thành công nhưng về mặt lịch sử (niveau de l’histoire) th́ đó là một quyển sách của sự thất bại, và sự thành công chỉ có ở phần kết thúc của quyển tiểu thuyết cho nên cần coi giáo tŕnh này như một tác phẩm “khả tác” (scriptible) nghĩa là khi đọc xong người đọc phải tự viết lại bản văn của ḿnh.(5) La Préparation du roman chính là câu chuyện về sự thất bại trong việc viết một quyển tiểu thuyết, một quyển Tiểu thuyết bất khả (Roman impossible). Nhưng tại sao Barthes vẫn muốn Sửa soạn cho việc viết tiểu thuyết? Một hy vọng trong tuyệt vọng? Tuyệt vọng đối với bản thân nhưng hy vọng cho tương lai để Văn chương không chết? Như vậy ta có thể đọc La Préparation du roman như thất bại để đưa tới thành công? Tia sáng cuối đường hầm của Văn chương nói chung và của tiếu thuyết nói riêng? V́ tiểu thuyết là một loại h́nh văn chương luôn biến đổi, không ai có thể đưa ra một định nghĩa cho tiểu thuyết được mọi người chấp nhận cho nên đúng ra nên coi La Préparation du roman là tài liệu khảo cứu cung cấp cho chúng ta những khái niệm mỹ học, những dụng cụ để xây dựng tiểu thuyết. Và điều này chỉ ra La Préparation du roman là “khả tác”.
Barthes giới thiệu khai từ (Épigraphe) cho giáo tŕnh này
như một mùi hương khởi hứng từ
Chateaubriand trong quyển Mémoires d’outre-tombe “Trong mùi
hương không được cái đẹp hít thở
này, không tinh lọc trong cốt lơi của nó, không trải
rộng trên những dấu vết trên đường
đi của nó, đẫm mùi hương của bầu
trời rạng đông sắp hiện ra, của luống
đất đă vỡ và của thế giới, có tất
cả những nỗi sầu muộn của những
niềm hối tiếc, của sự vắng mặt và
của tuổi trẻ.”(6) Barthes mượn lời
Chateaubriand để thố lộ nỗi sầu muộn,
niềm hối tiếc, sự biệt tích, và tuổi
trẻ đă mất của chính ḿnh. Barthes cho rằng giáo
tŕnh này cũng là một Quyển Sách hay một Cuộn Phim
có cấu trúc như một vở kịch hay một Nghi
thức (Rite) giao ngộ hay như một Bi-Hài
kịch (giữa những người thân) nho nhỏ, và
sẽ có ba chương hay ba hồi: Lời nói đầu
(Prologue), tiếp theo là khai dẫn để vượt qua
những trở ngại, mở những nút thắt
để viết Tác phẩm (Ham muốn viết/Le Désir
d’écrire, ba Thử nghiệm/Épreuves), và cuối cùng là
‘Để Kết Thúc’ chứ không đưa đến
một Kết luận nào, tuy là một Lời bạt
nhưng đúng ra là một sự Treo lửng (Suspension)
chính Barthes cũng không biết lời giải đáp.(7)
Barthes cũng t́m cách nối lời Mở Đầu vời
phần chính quyển sách bằng cách xen kẽ vào một
phần giao tiếp ngắn nói về Phương pháp,
giống như kiểu Hài kịch Hy lạp cổ cho
một diễn viên chính đại diện tác giả ra
trước sân khấu nói với thính giả như
thể ḿnh là tác giả (Parabase), nghĩa là Barthes phát
ngôn như tác giả của giáo tŕnh chứ không như tác
giả của một Tác phẩm sẽ được
viết.
Ham muốn viết: Loại bỏ những lư do ngoại tại trong những câu trả lời cho câu hỏi “Tại sao viết?” như những biện minh cho việc viết, Barthes cho rằng viết là để thỏa măn sự ham muốn tuy Ham muốn ở đây không là nguồn cội của Viết nhưng như một khởi hành (départ) của niềm khoái lạc (plaisir), của hân hoan (jubilation). Niềm hân hoan khi đọc một bản văn nào đó → “Tôi viết v́ tôi đă đọc/J’écris parce que j’ai lu”. Nhưng để đi từ Khoái lạc của việc Đọc sang Ham muốn Viết (sự khoái đọc này khác hẳn đọc chỉ để hương thụ sự vui thích của đa số mọi người muôn đời vẫn chỉ là độc giả) th́ sự vui thích này phải là vui thích sản xuất văn tự (joie productrice d’écriture) nghĩa là hân hoan, xuất thần, hoán chuyển đột biến (mutation), soi sáng (illumination), rung chuyển (ébranlement), “cải đạo/conversion”. Barthes lấy ngay thí dụ khi đọc được đoạn văn trích dẫn Chateaubriand nêu trên: Barthes đă cảm thấy ngôn ngữ sáng ḷa, đoạn văn này ve vuốt ḿnh, lung linh và bí ẩn mỗi khi đọc lại, cảm thấy được sự hài ḷng thực sự của một ham muốn yêu đương (véritable contentement d’un désir amoureux) v́ biết rơ bản văn này là đối tượng của sự ham muốn của ḿnh, thích ứng với nỗi ham muốn của ḿnh. Nhưng không thể nói ai cũng có cùng sự ham muốn với bản văn này v́ điều đó c̣n tùy mỗi người, tùy sự may mắn. Hơn nữa cũng v́ trong những Quyển sách hay những đoạn văn của quyển sách có sự gieo rắc của Ham muốn (Dissémination du Désir) như lời mời gọi sinh sản những quyển sách khác. Barthes viết: “Ham muốn viết của tôi không đến từ việc đọc để đọc, nhưng đến từ những cái đọc riêng biệt, định vị: Nơi chốn của sự Ham muốn của tôi→ Giống như trong một gặp gỡ yêu đương: cái ǵ định nghĩa cho Gặp gỡ này? Niềm Hy vọng. Từ sự gặp gỡ một số bản văn đă đọc nảy sinh Hy vọng viết.”(8)
____________________________
(1) Roland Barthes, La Préparation du roman I, 159: Moment de vérité→ Moment de l’Intraitable: on ne peut ni interpréter, ni transcender, ni regresser; Amour et Mort sont là, c’est tout ce qu’on peut dire. Et c’est le mot même du haïku.
(2) Roland Barthes, Œuvres complètes, V, 468.
(3) Trong nguyên bản tiếng Pháp La Préparation du roman I&II không đính kèm 8 trang bản khởi thảo dàn bài cho quyển Vita Nova của Barthes nhưng Kate Briggs dịch giả quyển này sang tiếng Anh đă cho 8 trang chụp nguyên bản dàn bài Vita Nova chữ viết tay của Barthes kèm bàn dịch sang tiếng Anh như một đóng góp vào hai tranh biện về giáo tŕnh này của Barthes: luồng ư kiến thứ nhất nêu giả thuyết rất có thể nếu Barthes không bất thần tử nạn Vita Nova có thể sẽ được Barthes viết cũng là để bắt đầu một cuộc sống mới như tên gọi quyển tiểu thuyết, ư kiến ngược lại căn cứ trên chính lời Barthes trong phần đầu giáo tŕnh sửa soạn “như thể/comme si” viết một quyển tiểu thuyết nghĩa là Barthes đă hàm ngụ sự thất bại và coi sự chuẩn bị này đưa đến một quyển tiểu thuyết không được thực hiện: Vita Nova vĩnh viễn chỉ là một dự tính như được phác thảo trong Dàn bài 8 trang.
(4) Roland Barthes, La Préparation du roman II, 186: Il y a dix ans, j’aurai pu faire sur la critique littéraire un exposé actuel et vivant→ Cette critique riche et diverse: Marxist (Lukácz, Goldman), thématique (Bachelard, Sartre, Richard), structuralist ou plutôt sémiotique (car de structuralists, stricto sensu, il n’y a que Dumézil, Benvenist, Lévi-Strauss)…Certaines de ces critiques sont aujourd’hui éteintes, d’autres heureusement sont encore très productive.[Barthes có ư nhắc đến buổi thuyết tŕnh do Antoine Compagnon mời ở École Polytechnique.]
(5) Prétexte, 391-392: Je voudrais dire que Proust, restant un auteur “lisible”, l’opposition de l’histoire et du discours reste pertinent pour l’analyse. Si la Recherche en tant que livre est immédiatement parfait, s’il n’y a pas d’échec, c’est au niveau du discours, mais au niveau d’histore, c’est le livre d’un échec, jusqu’au moment où çà s’appelle le Temps Retrouvé.
(6) Roland Barthes, La Préparation du roman II, 184: Dans ce parfum non respiré de la beauté, non épurée dans son sein, non répandu sur ses traces, dans ce parfum chargé d’aurore, de culture et de monde, il y avait toutes les mélancholies des regrets, de l’absence et de la jeunesse.
(7) Sđd, 185: PLAN: Quant au Film, au Livre, au Cours lui-même, sa structure sera assez semblable à celle d’une pièce de Théâtre – ou d’un Rite (affinité, lien) et même d’une petite Tragédie (domestique), c’est-à-dire qu’il y aura:
a) Un Prologue: le Désir d’écrire, comme départ de l’Œuvre à faire;
b) trois chapitres (livre), trois actes (Tragédie ou Commédie?) ou trois épreuves (Rite, Initiation) = les obstacles qu’il faut franchir, les nœuds qu’il faut dénouer pour écrire l’Œuvre;
c) une Conclusion? Un Épilogue? Non, pas à proprement parler: plutôt une Suspension, un Suspense final dont je ne connais pas moi-même la résolution (suspense, hélas, pour moi seul, car j’imagine bien qu’il vous indiffère, narrativement parlant, que l’Œuvre soit faite).
(8) Sđd, 189: mon Désir d’écrire vient non pas de la lecture en soi, mais de lectures particulières, topiques: la Topique de mon Désir→ Comme dans une rencontre amoureuse: qu’est-ce qui définit la Rencontre? L’Espoir. De la rencontre de quelques texts lus naît L’Espoir d’écrire.
(c̣n tiếp)
đào trung đąo
http://www.gio-o.com/daotrungdao.html
© gio-o.com 2013