đào trung đąo
3-Zero
±± triết học ±± lư thuyết văn chương ±± phê b́nh văn chương
≤≤ cùng một khác
(31)
Kỳ 1, Kỳ 2, Kỳ 3, Kỳ 4, Kỳ 5, Kỳ 6, Kỳ 7, Kỳ 8, Kỳ 9, Kỳ 10, Kỳ 11, Kỳ 12, Kỳ 13, Kỳ 14, Kỳ 15, Kỳ 16, Kỳ 17, Kỳ 18, Kỳ 19, Kỳ 20, Kỳ 21, Kỳ 22, Kỳ 23, Kỳ 24, Kỳ 25, Kỳ 26, Kỳ 27, Kỳ 28, Kỳ 29, Kỳ 30, Kỳ 31,
■ Quan niệm về cái Trung tính (Le Neutre) của Maurice Blanchot và Roland Barthes.
Tại sao cái Trung tính? V́ t́m kiếm để nhận
diện cái Trung tính chính là truy vấn khả tính của triết
học cũng như của văn chương. Đó cũng
là sự biến (évènement/event) trong triết học
và văn chương đương đại quan trọng
nhất của thế kỷ 20 đưa đến thay
đổi tư duy triết học và văn chương
hôm nay. Nan đề về cái Trung tính đặt ra cho
triết học và văn chương trong vận động
chuyển dịch từ thế kỷ 20 sang thế kỷ 21
cần được thông diễn soi sáng để thấy
được đây là nhiệm vụ cấp thiết
để nhắm tới cái Cùng Một Khác. Trong thế kỷ
20 diện mạo của cái Trung tính đă ghi dấu, là những
nét vạch (traces) của ngôn ngữ và tư tưởng trong
bản văn triết lư của Heidegger, Deleuze, Foucault,
Derrida…(chỉ kể những đại diện tiêu biếu)
là những triết lư đưa đến nan đề về
chung cuộc của chính triết lư, nghĩa là tra vấn ‘Cái
ǵ sau Triết lư?’, sau chung cuộc của triết lư sẽ
là cái ǵ? Cái Trung tính cũng ghi dấu trong thơ của
Mallarmé, Rilke, Char, Célan… tiểu thuyết của Kafka, Proust, Musil,
Beckett, Duras…là những đỉnh cao văn chương thế
kỷ 20. Hiển nhiên cùng với câu hỏi về khả
tính/chung cuộc của triết lư phải là câu hỏi về
khả tính/chung cuộc của văn chương v́ văn
chương gắn liền ruột thịt với triết
lư. Chung cuộc ở đây không phải là sự chấm dứt
nhưng có nghĩa: sau khi triết lư và văn chương đă
nhận biết được khả tính trong chính bất
khả tính của ḿnh th́ sau đó cái ǵ sẽ đến
cái ǵ/cái ǵ sẽ đến? Cái Cùng Một Khác?
■ Cái Trung tính theo Maurice Blanchot.
Tại sao Blanchot?
Đặc điểm của phê b́nh văn chương thế
kỷ 20 là đă chỉ ra một cách rơ ràng nhất so với
những thế kỷ trước về mối quan hệ
thiết thân giữa triết học và văn chương:
làm văn chương không thể thiếu triết học,
và ngược lại. Khởi đầu với Nietszche
triết gia từ nay cũng là những kẻ không những
yêu mến văn chương mà c̣n có kiến thức sâu rộng
về văn chương, viết ra những bản viết
thông diễn văn thơ xuất sắc. Chẳng hạn
Heidegger danh trấn giang hồ với những thông diễn
về Hölderlin, Derrida lừng lẫy với những bản
viết hủy tạo thơ Francis Ponge và Paul Célan v.v…Thế
nhưng Blanchot lại được coi là khuôn mặt tiêu
biểu nhất của tư trào này v́ đă đưa ra được
những khảo chứng sáng tạo độc đáo và khá
thuyết phục về vấn đề này qua lộ tŕnh
t́m kiếm cái Trung tính để vượt bỏ Toàn thể
tính trong biện chứng của Hegel, Hữu của
Heidegger và vạch ra “không gian văn chương/l’espace
littéraire” là sở cứ của khả hữu văn
chương cùng với “sự vắng mặt của quyển
sách” (L’Absence de livre).(1) Toàn bộ tác phẩm cả sáng tác lẫn
khảo luận của Blanchot được viết suốt
trong hơn nửa thế kỷ (“hào kiệt ẩn mặt/hero
clandestin” như Barthes đặt tên cho Blanchot trong La
Préparation du roman hay “bạn đời/đường
vô h́nh/partenaire invisible” theo cách gọi của Éric Hoppenot,
cách gọi này được dùng làm tựa đề cho
quyển khảo luận tiểu sử (Essai biographique) văn
chương tư tưởng Maurice Blanchot của Hoppenot)
đều chỉ có một mục đích duy nhất là qua
lại không ngưng nghỉ – và trên hết là qua lại từ
vị trí ngoài lề (những tác phẩm văn triết) để
có cái nh́n nghiêng (oblique) t́m ra những lỗ hổng, những
giới hạn của bản văn để tranh biện
– trên mọi ngả đường văn chương (Hölderlin,
Sade, Mallarmé, Rilke, Kafka, Bataille, Artaud, Ponge, Char, Beckett, Klosowski,
Duras, Butor, Louis-René des Forêts, Antelme ...) và tư tưởng (Hegel,
Nietszche, Heidegger, Bataille, Levinas, Sartre, Camus, Derrida, Foucault…) để
chụp bắt cái Trung tính những bản văn này tuy mấp
mé giới hạn trong hướng tới nhưng lại
thất bại trong tư tưởng canh thức Cơi ngoài. Có
thể nói Blanchot là kẻ suốt đời chung t́nh với
cái Trung tính, chung t́nh trong khổ đau, trong thảm họa
trốn t́m nhân vật ẩn hiện-hiện ẩn nơi
Cơi ngoài: Neutre → Dehors. Ảnh hưởng của Blanchot
trên Jacques Derrida, Michel Foucault, Giles Deleuze, Roland Barthes, Julia
Kristéva, Philippe Lacoue-Labarthe, Jean-Luc Nancy…và trên phê b́nh văn
chương đương đại là điều được
chính những tên tuổi này và khá nhiều chuyên gia nghiên cứu
phê b́nh văn chương thừa nhận.(1) Ngày nay đọc
và đọc lại Blanchot ta vẫn thấy Blanchot là “người
đương thời tuyệt cùng/extreme contemporary” theo
cách ngợi ca của Leslie Hill. Từ ba thập niên cuối
của thế kỷ 20 cho đến nay thế hệ kế
tiếp những tên tuổi nêu trên đă khởi đầu
tập trung nghiên cứu Blanchot một cách hàn lâm. Sớm sủa
nhất có lẽ là luận án tiến sĩ Maurice Blanchot
et la question de l’écriture của Françoise Collin tŕnh năm 1970
(tuy bị giới hạn ở việc chỉ thể
nghiên cứu những tác phẩm của Blanchot xuất hiện
trước thời điểm tác gia viết luận án
nhưng đây là một công tŕnh nghiêm túc và tiền phong), và
sau đó vào thập niên 80s là sự thành lập “Companie de
Maurice Blanchot” ở Pháp càng ngày càng đông đệ tử.
Ở Mỹ trong ba thập niên cuối của thế kỷ
20 tác phẩm của Blanchot hầu hết đă được
chuyển ngữ và giới hàn lâm nỗ lực hướng
việc nghiên cứu phê b́nh văn chương đặt
cơ sở trên tư tưởng Blanchot: học giả
nghiên cứu Blanchot thế giá hàng đầu của Mỹ
hiện nay là Leslie Hill, kế đến là Michael Holland,
Kevin Hart, Gerald L. Bruns, Christophe Fynsk…
Câu hỏi: Tŕnh bày quan niệm của Blanchot về cái Trung tính theo phương sách nào? Đó là một câu hỏi tiên khởi phải giải quyết. Nhưng đó cũng lại là một câu hỏi không dễ giải đáp v́: thư nhất, cái Trung tính được Blanchot tiếp cận và tŕnh bày không chỉ một lần mà có sự quay trở lại một hay nhiều lần rất rải rác trong hầu hết các tác phẩm; thứ nh́, văn phong của Blanchot thoạt nh́n tưởng là trong sáng nhưng rất cô đọng và v́ vậy khá tối tăm – nhiều khi đó chỉ là những đoạn rời (fragments) – ; thứ ba, con đường đi t́m cái Trung tính của Blanchot tuy theo hai ngả chính là ngả văn chương và triết học nhưng đọc bản viết của Blanchot không dễ tách bạch đâu là văn chương đâu là triết học v́ cả hai gắn quyện vào nhau. Cũng chính v́ điều này Blanchot không phải là một tac gia “dễ đọc” đối với loại độc giả kiến thức về văn chương và triết học không đủ đáp ứng những đ̣i hỏi cho việc đọc được Blanchot. Ngoài ra, không những Blanchot không phải là một triết gia chuyên nghiệp nhưng khi diễn giải Blanchot lại không thể không coi Blanchot là một nhà tư tưởng. Nếu chọn giải pháp tŕnh bày theo trật tự thời gian đánh dấu sự xuất hiện những bản viết của Blanchot th́ đó cũng chỉ là một trong những giải pháp khả dĩ nhưng lại kèm theo nó những khuyết điểm khó tránh khỏi. Một cách làm khác như của Christophe Bident là t́m ra những đường dẫn (threads) trong những chuyển dịch (movements) tư tưởng của Blanchot từ triết học sang văn chương và ngược lại, định vị cái Trung tính trong bản văn của Blanchot trên ba diện: văn chương-phê b́nh-triết học; lịch sử văn phạm và triết học cũng như kư hiệu học và tâm phân học; và sau hết là trên b́nh diện mỹ học. Nhưng cũng cần thêm vào đó b́nh diện chính trị, đạo đức nếu muốn đầy đủ hơn v́ Blanchot là người tích cực không nhữ tranh biện mà c̣n là “anh hung ẩn mặt’ trong những vấn đề chính trị thời đại của ḿnh, và Blanchot đă để lại mộ khối lương lớn những bản viết tranh biện chính trị nay đă được thu tập và xuất bản. Cách làm này tương đối gần sát với chuyển vận tư tưởng của Blanchot nhất nhưng lại đ̣i hỏi người làm cũng như người đọc sự kiên nhẫn và tinh tế cao. Cách làm thứ ba dễ tŕnh bày hơn và người đọc cũng dễ theo dơi như phần đông những chuyên gia nghiên cứu Blanchot vẫn làm là lấy khởi điểm từ việc Blanchot phản biện Hegel trong hai bài Le Règne animal de l’esprit/Vương quốc của con vật tinh thần và bài La Littérature et le droit à la mort/Văn chương và quyền được chết Blanchot cho đăng báo vào hai năm 1947 và 1948 được coi như khởi đầu tranh biện với Hegel để t́m ra lộ tŕnh tiếp cận cái Trung tính trong văn chương của Blanchot trong những tác phẩm sau dó như những tranh biện của Blanchot với Heidegger, Lévinas, Bataille… cũng như ảnh hưởng của những triết gia này trên Blanchot. Và sau chót là những tranh biện với Foucault, Deleuze, Derrida…, tạo ảnh hưởng trên những triết gia này nhưng đồng thời cũng điều chỉnh tư tưởng của chính Blanchot qua tranh biện. Cách làm của chúng tôi sẽ là t́m ra những vận động tư tưởng của Blanchot về cái Trung tính bằng cách qui chiếu những tác phẩm kể từ quyển La part du feu (với bài cuối cùng là La Littérature et le droit à la mort/Văn chương và quyền được chết) và những tác phẩm kế tiếp liên hệ tới cái Trung tính với điểm qui chiếu là quyển l’Entretien infini/Kết đàm vô tận của Blanchot v́ quyển này có thể được coi là một quyển Traité du Neutre/Khảo về cái Trung tính.
________________________________
(1) Maurice Blanchot, L’Écriture du désastre, Galliamard 1980, trang 160: Écrire dans l’ignorance et le rejet de l’horizon philosophique, ponctué, rassemblé ou disperse par les mots qui délimitent de la complaisance (la littérature de l’élégance et du bon goût). Hölderlin, Mallarmé, tant d’autres, ne nous le permet pas/ Viết trong sự không biết đến và vứt bỏ chân trời triết học, chân trời này hoặc được nhấn mạnh, tập trung, hay tản mác qua những từ/chữ đặt để giới hạn cho sự hời hợt (thứ văn chương của sự tao nhă và của thị hiếu thời thượng). Hölderlin, Mallarmé, và rất nhiều nhà văn nhà thơ khác không cho phép chúng ta làm vậy [không biết đến và vứt bỏ chân trời triết học.]
(2) Xin chỉ kể ra những tác giả chính (danh sách c̣n có thể nhiều hơn):
a) Georges Bataille khen ngợi hai truyện kể (récits) của Blanchot là Au moment voulu và Le dernier home: Blanchot là người đă cho tính chất cực điểm của cái chính nó không có những giới hạn một tiếng nói (Georges Bataille, Œuvres completes quyển XII các trang 173-178 và 457-466). Trong cùng hành động nh́n nhận nhau Blanchot đă viết những trang sách thật sang trọng về Bataille trong Entretien infini/Kết đàm Vô tận (trang 300-342) dưới chủ đề ‘L’éxpérience-limite/Kinh nghiệm-giới hạn’
b) Jacques Derrida trong 4 bài thuyết tŕnh liên tiếp ‘Pace Not(s) (1976), Living On (1979), Title to Be Specified (1979), và Loi du genre (1979) (sau này được in thành tập Parages do nhà Galilée ấn hành năm 1986) tập trung diễn giải những sáng tác văn xuôi của Blanchot thay v́ chỉ nói đến những bài khảo luận văn chương và triết học của Blanchot như nhiều nhà nghiên cứu thường làm để chỉ ra mối quan hệ đi lại không thể tách rời giữa sáng tác và khảo luận của Blanchot. Vào ngày 17 tháng Bảy năm 1994 Derrida cũng có lời phát biểu truyền thanh trong chương tŕnh France-Culture có chủ đề Sur les traces de Maurice Blanchot (do Didier Cahen và Jean-Claude Loiseau dẫn chương tŕnh) rằng những bản viết văn chương của Blanchot “tuyệt đối không thể dung chứa được trong những biên giới của diễn ngôn, kể cả chính loại h́nh [diễn ngôn] thuyết thoại/tự sự. (Trích dẫn theo Leslie Hill trong Blanchot, extremery contemporary, trang 3). Để tri ân công tŕnh của Derrida trong Parages Blanchot đă viết bài ‘Grâce (soit rendue) à Jacques Derrida’ đăng trên Revue Philosophique, số 2 năm 1990 với câu mở đầu thật khiêm cung “Sau quăng thời gian im tiếng khá dài như vậy (có lẽ hàng trăm và hàng trăm năm) tôi có thể sẽ bắt đầu viết trở lại, không phải viết về Derrida (nghe sao tự hào quá!), nhưng với sự giúp đỡ của ông ta, và lại tin chắc rằng tôi có thể sẽ lập tức phản bội ông ấy.”( Maurice Blanchot, bản Anh văn Thanks (Be Given) to Jacques Derrida in trong the The Blanchot Reader do Michael Holland chủ biên trang 317: After such a long silence (perhaps hundreds and hundreds of years) I shall begin to write again, not on Derrida (how pretentious!), but with his help, and convinced that I shall betray him immeditately.
c) Michel Foucault: La Pensée du dehors viết về Tư tưởng Cơi ngoài của Blanchot, nxb Fata Mongana 2009 (bài này được đăng lần đầu trên tạp chí Critique số 229 tháng Sáu 1966.) Thêm nữa, trong bài phỏng vấn Về Những Cách chúng Ta Viết Lịch sử với Raymond Bellour được đăng trên tạp chí Les Lettres française vào tháng Sáu 1967 Foucault đưa ra nhận định: “Đúng thực Blanchot là người đă làm cho tất cả diễn ngôn về văn chương khả hữu. Trước hết, chính bởi Blanchot là người đầu tiên chỉ ra rằng những tác phẩm/công tŕnh được gắn bó với nhau bởi cái ngoại diện ngôn ngữ của những tác phẩm và đó là nơi “văn chương” xuất hiện. Văn chương chính là cái tạo nên cơi ngoài (le dehors) của mọi tác phẩm, khơi ḍng của mọi ngôn ngữ viết và để lại một dấu cào sướt trống rỗng trên mỗi bản văn. Đó không phải là một thể cách của ngôn ngữ, nhưng là một đường rănh chạy suốt như một sức thúc đẩy lớn lao xuyên suốt mọi ngôn ngữ văn chương. Bằng cách đưa ra ánh sáng cái đ̣i hỏi thúc đẩy này của văn chương như một “địa điểm chung,” một địa điểm trống không là nơi những tác phẩm/công tŕnh đến đấy để được chất lên, tôi tin rằng Blanchot đă giao phó cho phê b́nh đương đại cái phải là đối tượng của nền phê b́nh này, cái làm cho công việc phê b́nh khả hữu về cả hai mặt là sự chính xác và sáng tạo.” Để đáp ứng Foucault đă viết La Pensée du dehors (62 trang) và những lần nhắc đến ḿnh Blanchot đă viết một quyển sách về Foucault có tựa đề Michel Foucault tel que je l’imagine/Michel Foucault như tôi tưởng tượng (66 trang) cũng do Fata Mongana ấn hành, sau được Blanchot cho in vào tập Une voix venue d’ailleurs.
d) Philippe Lacoue-Labarthe: Agonie terminée, agonie interminable: Sur Maurice Blanchot, suivi de l’Émoi, Galilée 2011.
e) Marlène Zarader: L’être et le neuter: À partir de Maurice Blanchot, Verdier 2001.
(c̣n tiếp)
đào trung đąo
http://www.gio-o.com/daotrungdao.html
© gio-o.com 2014