đào trung đąo
3-Zero
±± triết học ±± lư thuyết văn chương ±± phê b́nh văn chương
≤≤ cùng một khác
(49)
Kỳ
1, Kỳ
2, Kỳ
3, Kỳ
4, Kỳ
5, Kỳ
6, Kỳ
7, Kỳ
8, Kỳ
9, Kỳ
10, Kỳ
11, Kỳ
12, Kỳ
13, Kỳ
14, Kỳ
15, Kỳ
16, Kỳ
17, Kỳ
18, Kỳ
19, Kỳ
20, Kỳ
21, Kỳ
22, Kỳ
23, Kỳ
24, Kỳ
25, Kỳ
26, Kỳ
27, Kỳ
28, Kỳ
29, Kỳ
30, Kỳ
31, Kỳ
32, Kỳ
33, Kỳ
34, Kỳ
35, Kỳ
36, Kỳ
37, Kỳ
38, Kỳ
39, Kỳ
40, Kỳ
41, Kỳ
42, Kỳ
43, Kỳ
44, Kỳ
45, Kỳ
46, Kỳ
47, Kỳ
48, Kỳ
49,
Để dẫn vào khái niệm ‘désœuvrement/giải tác’(1) hay xóa bỏ tác phẩm – một khái niệm khá trừu tượng và mới mẻ - Blanchot nói về sự cô đơn của nhà văn đến từ sự cô đơn của tác phẩm. Theo Blanchot sự cô đơn của nhà văn không có nghĩa tầm thường là t́nh cảm của nhà văn khi tự cô lập với thế giới bên ngoài để sáng tác như vẫn được người đời hiểu và lợi dụng. Trong bức thư viết ngày 3 tháng Tám 1907 Rilke gửi cho nữ bá tước Solms-Laubach: “Đă nhiều tuần nay, ngoại trừ hai khoảng đứt quăng ngắn ngủi, tôi đă không nói ra [viết được] một lời [câu thơ] nào; cuối cùng sự cô đơn của tôi khép lại và tôi ở trong công việc như ở trong ruột của trái cây.” Câu nói của Rilke, theo Blanchot, cho thấy đó không phải là sự cô đơn (solitude) mà là sự thu tập (recueillement). Nếu có cô đơn th́ chính v́ nhà văn cảm thấy nỗi cô đơn đối với tác phẩm, đó là sự cô đơn đến từ tác phẩm mà thôi. Sự cô đơn của tác phẩm (la solitude de l’œuvre) đến với nhà văn này cho chúng ta thấy đó là một nỗi cô đơn thiết yếu (solitude essentielle) hơn, nỗi cô đơn này loại trừ sự tự cô lập cá nhân. Sự cô đơn thiết yếu không cần biết tới sự khác biệt giữa tự cô lập hay không. Cô đơn thiết yếu không biến đi trong việc nâng đỡ nhà văn duy tŕ một tương quan mạnh mẽ trong nhiệm vụ bao trùm bề rộng của ngày tháng nhà văn làm chủ để sáng tác trong khi như thể bị ch́m đắm vào nhiệm vụ mà không hề hay biết. Và chính sự không hay biết này giúp nhà văn tồn tại, biến hắn thành kẻ cho phép ḿnh tồn tại. Nhưng theo Blanchot “Nhà văn không bao giờ biết được tác phẩm là hoàn thành. Cái hắn kết thúc ở một quyển sách, hắn sẽ lại bắt đầu hay phá hủy đi ở một quyển sách khác.”(2)
Không đồng ư với Valéry khi cho rằng tác phẩm chứa đựng sự vô tận, tác gia khi không thể kết thúc tác phẩm có thể coi tác phẩm như một môi trường khép kín của một công việc bất tận mà sự không thể kết thúc sẽ làm cho việc làm chủ tinh thần phát triển dưới h́nh thức một khả năng, một sức mạnh để lại tiếp tục. Nói cho gọn, nếu quan niệm như vậy th́ sự vô cùng vô hạn của tác phẩm chỉ là sự vô cùng vô hạn của tinh thần, tinh thần muốn tự hoàn thành chỉ trong một tác phẩm thay v́ tự hoàn thành trong trong vô vàn những tác phẩm. Theo Blanchot, tác phẩm văn chương nghệ thuật chẳng phải là hoàn tất hay không hoàn tất: nó hiện hữu, nó là (l’œuvre d’art, l’œuvre littéraire n’est ni achevée ni inachvée: elle est) chứ không là ǵ khác hơn thế, bên ngoài cái nó là nó sẽ không là ǵ hết, kẻ nào muốn nó nói hơn điều đó sẽ không t́m thấy ǵ hết, sẽ thấy tác phẩm chẳng bày tỏ ǵ cả. “Kẻ nào sống trong sự phụ thuộc vào tác phẩm, hoặc để viết, hoặc để đọc, là phụ thuộc vào sự cô đơn của điều chỉ biểu đạt một từ/chữ hữu: từ/chữ này ngôn ngữ che phủ bằng cách hoặc dấu biến đi hay làm lộ ra đồng thời lại làm nó biến mất trong sự trống rỗng yên lặng của tác phẩm.”(3) Tác phẩm là cô đơn, kẻ đọc tác phẩm như thể đi vào sự xác quyết tác phẩm là cô đơn, cũng như kẻ viết ra tác phẩm cũng ở trong sự mạo hiểm này. Sự cô đơn của tác phẩm: đó là sự vắng mặt của đ̣i hỏi như giới hạn đầu tiên, và sự vắng mặt này không bao giờ cho phép nhà văn coi tác phẩm như đă hoàn thành hay c̣n dở dang. Nó không có chứng cớ cũng như chẳng dùng để làm ǵ. “Tác phẩm là cô đơn: điều này không có nghĩa tác phẩm măi măi là không thể thông giao/cảm, rằng người đọc không nắm bắt được tác phẩm. Nhưng kẻ nào đọc tác phẩm tức là bước vào sự xác định của sự cô đơn của tác phẩm, cũng như kẻ viết ra tác phẩm thuộc về sự hiểm nguy của sự cô đơn này.”(4)
Để giải thích tại sao lại đưa ra những khẳng định như trên Blanchot chỉ ra nguồn gốc của những khẳng định này nằm ở sự khác biệt giữa quyển sách với tác phẩm: Nhà văn viết ra một quyển sách nhưng quyển sách đó vẫn chưa là tác phẩm. Lư do tác phẩm chỉ là tác phẩm khi tự nó tuyên nhận trong bạo động của một sự khởi đầu riêng của nó, nói tên từ/chữ ‘hiện hữu’ – ḿnh là tác phẩm – đó là biến cố (événement) xảy ra, thành tựu, khi tác phẩm trở thành sự thân thiết giữa kẻ viết ra tác phẩm với người đọc tác phẩm. Câu hỏi được đặt ra: nếu như cô đơn là mối hiểm nguy cho nhà văn th́ sự cô đơn này có diễn tả sự kiện nhà văn quay về, hướng về sự bạo động mở toang của tác phẩm mà hắn măi măi cũng chỉ nắm bắt được cái thay thế cho tác phẩm, con đường dẫn tới tác phẩm hay ảo tưởng về tác phẩm dưới h́nh thức quyển sách? “Nhà văn phụ thuộc vào tác phẩm, nhưng cái phụ thuộc vào hắn lại chỉ là môt quyển sách, một đống câm nín những từ/chữ khô khốc, điều thật rất vô nghĩa trên đời. Khi nhà văn cảm thấy được sự trống rỗng này, hắn chỉ nghĩ rằng tác phẩm là c̣n dở dang, và hắn tin rằng chỉ cần làm việc hơn chút nữa, với cơ may của những thời khoảng thuận lợi sẽ cho phép, chỉ riêng hắn thôi, kết thúc tác phẩm. Vậy nên hắn lại hướng ḿnh về tác phẩm. Thế nhưng cái hắn muốn chỉ riêng ḿnh kết thúc, lại vẫn cứ là cái không thể kết thúc, gắn kết hắn vào một công việc ảo tưởng. Và cuối cùng là, tác phẩm, bất cần biết đến hắn, khép lại trên sự vắng mặt của hắn, trong một sự xác định vô ngă, vô danh như nó vẫn là thế - và chẳng có ǵ hơn thế. Đó là điều người ta diễn dịch bằng cách nhận xét rằng người nghệ sĩ, v́ chỉ kết thúc tác phẩm vào lúc tạ thế, nên chẳng bao giờ biết được tác phẩm của ḿnh. Nhưng ta cũng có thể đảo ngược lời nhận xét này, rằng phải chăng nhà văn sẽ chẳng bao giờ chết chừng nào tác phẩm c̣n sống, như chính hắn đôi khi có linh cảm qua cái ấn tượng về một sự giải tác, [đó là một trong] những ấn tượng kỳ lạ nhất.”(5) Đây là lần đầu Blanchot đưa ra từ “‘désœuvrement/giải tác’ trong một câu văn ngắn gọn và bất chợt đầy ngạc nhiên.
“Noli me legere/Đừng đọc tôi” là lời tác phẩm nói với nhà văn, mô tả hoàn cảnh nhà văn chẳng bao giờ đọc được tác phẩm của ḿnh. Tác phẩm với hắn là bất khả độc, là một bí ẩn (un secret), hắn không bao giờ có thể đối diện với tác phẩm của ḿnh. Là một bí ẩn v́ hắn bị ngăn cách. ‘Không thể đọc’ tác phẩm của ḿnh không phải là một chuyển vân tiêu cực (mouvement négatif) nhưng đó là cách tiếp cận thực sự duy nhất nhà văn có thể có đối với cái chúng ta gọi là tác phẩm. Blanchot viết: “Câu nói đột ngột Noli me legere/Đừng đọc tôi làm nổi lên, chính nơi chỉ có quyển sách, là đă có đường chân trời của một sức mạnh/khả năng khác. Một kinh nghiệm phù du, dù rằng tức thời. Đó không phải là sức mạnh của một sự cấm đoán, đó là, qua tṛ chơi và ư nghĩa của những từ/chữ, sự khẳng định nhấn mạnh, thô nhám và nhức nhối, rằng cái cái hiện đang có/ở đó, trong sự hiện diện toàn phần của một bản văn chung quyết, vẫn từ khước, là sự trống rỗng thô nhám và cay độc của sự từ khước, hay loại trừ, với quyền hành của sự lănh đạm, chính kẻ đă viết ra nó, kẻ đó lại muốn nắm lại lần nữa bằng cách đọc nó. Sự bất khả của đọc chính là sự khám phá ra rằng, giờ đây, trong không gian rộng mở do sự sáng tạo, lại không có chỗ cho sự sáng tạo – và, đối với nhà văn, không c̣n có thể làm ǵ khác ngoài việc vẫn cứ viết cùng một tác phẩm đó. Chẳng có kẻ nào đă viết ra tác phẩm có thể sống, ở kế bên tác phẩm. Điều đó chính là sự quyết định loại bỏ hắn, cắt đứt hắn, quyết định này biến hắn thành kẻ sống sót, kẻ không có tác phẩm, kẻ không có việc làm, kẻ ù lỳ mà nghệ thuật không phụ thuộc vào. ”(6) Bị Noli me legere từ chối như vậy nhà văn chỉ c̣n cách tiếp tục viết tác phẩm, và trong khi tác phẩm được viết ra, nhà văn chỉ c̣n cách nhận rơ được cách tiếp cận tác phẩm nằm trong câu nói đột nhiên Noli me legere buộc hắn phải trở lại cái “khoảng cách” (écart) trước đó hắn đă bước vào để biết ḿnh phải viết ǵ như thể thấy ḿnh lại bắt đầu nhiệm vụ của ḿnh, lại t́m thấy sự cận kề, sự thân thiết lạc lơng của nơi bên ngoài hắn chẳng thể nào cư ngụ. Sự cô đơn của nhà văn cũng là điều kiện của việc hắn mạo hiểm như vậy, niềm cô đơn xuất phát từ điều hắn phụ thuộc vào cái nằm trong tác phẩm, phụ thuộc vào cái luôn luôn có trước tác phẩm.
Blanchot trở lại tra vấn cụm từ “À lui seul/Chỉ riêng hắn” trong câu “nhà văn phụ thuộc vào tác phẩm, nhưng cái phụ thuộc vào hắn, cái chỉ riêng hắn kết thúc, đó lại chỉ là một quyển sách.”(7): “ ‘Chỉ riêng hắn’ là để đáp lời sự chặt chẽ của từ/chữ ‘seulement/chỉ.’ ” Nhà văn không bao giờ đứng trước tác phẩm và hắn cũng không biết tác phẩm nằm ở đâu, hay nói đúng hơn sự không biết này cũng là bất tri, không biết đến và chỉ được nậhn thấy trong sự không thể đọc tác phẩm. Và chính cái kinh nghiệm mơ hồ này khiến hắn lại bắt tay vào viết tác phẩm. Trước những câu hỏi như: Tại sao nhà văn lại tự đặt ḿnh cho tác phẩm, không ngừng viết? Tại sao nếu như nhà văn cắt đứt với tác phẩm, như Rimbaud chẳng hạn, sự cắt đứt này đối với chúng ta lại như một sự bất khả bí ẩn? Phải chăng nhà văn không ngừng làm việc cho tác phẩm v́ muốn cầu toàn nhưng tính chất hoàn chỉnh (perfection) lại chẳng bao giờ là hoàn toàn (parfait)?... Trước những câu hỏi này Blanchot khẳng định: “Không phải vậy. Và tác phẩm chẳng bao giờ là cái v́ lư do đó mà người ta có thể viết (v́ lư do đó mà người ta có thể đặt quan hệ với cái được viết ra như với sự thao dượt quyền lực). Rằng nhiệm vụ của nhà văn chỉ chấm dứt với cuộc đời của hắn, đó là cái che khuất điều, v́ nhiệm vụ đó, cuộc đời hắn trượt vào nỗi bất hạnh của sự bất tận.”(8) Nỗi bất hạnh này đẩy nhà văn vào thảm kịch “làm nhà văn” là phải viết không ngưng nghỉ.
Tại sao nhà văn lại không thể ngừng viết? Lư do chính là v́ niềm cô đơn từ tác phẩm đến với nhà văn cho nhà văn thấy được giờ đây viết là chuyện không thể ngừng lại. Nhà văn không c̣n phụ thuộc vào phạm vi quyền hạn là nơi việc tự biểu lộ có nghĩa biểu lộ tính chất chính xác và chắc thực của những sự vật và những giá trị tùy thuộc vào ư nghĩa của những giới hạn của chúng, cái được viết ra xô đẩy người phải viết vào t́nh cảnh đứng trước sự xác nhận rằng ḿnh không có quyền hạn, sự xác nhận này chính nó cũng không nhất quán, chẳng nói lên điều ǵ, không phải là sự tạm ngưng nghỉ, là phẩm giá của niềm im lặng bởi v́ sự xác nhận này là lời vẫn cất lên dù cho tất cả đă được nói ra, nó không có trước lời nói bởi nó ngăn chặn lời nói hơn là lời khai mào, như thể nó thu hồi mất cái quyền và khả năng ngưng viết của nhà văn. “Viết, đó chính là phá vỡ mối dây hợp nhất lời nói với chính tôi, phá vỡ cái tương quan, trong khi khiến tôi nói hướng về “anh/chị”, cái tương quan cho tôi lời nói nội trong việc hiểu rằng lời nói này tôi nhận được từ anh/chị, bởi v́ lời nói này hướng về anh/chị, nó là việc nói với sự bắt đầu từ nơi tôi bởi v́ nó kết thúc nơi anh/chị. Viết chính là phá bỏ mối tương quan này. Ngoài ra đó cũng là thu hồi ngôn ngữ khỏi thế giới, lấy đi cái làm cho ngôn ngữ có một quyền năng, do quyền năng này, nếu tôi nói, chính là thế giới nói, đó chính là ngày do công việc, hành động và thời gian tạo nên.”(9) Nhà văn tiêu biểu cho việc không thể ngưng viết nhưng từ chối nói “tôi” trong bản viết theo Blanchot chính là Kafka. Kafka cho rằng ḿnh thực sự đi vào văn chương khi có thể thay chữ “tôi” bằng chữ “hắn” trong bản viết. Theo Blanchot, sự biến đổi này thật ra sâu xa hơn thế. V́ nhà văn thuộc về một thứ ngôn ngữ người đời không dùng để nói, ngôn ngữ này không nói với ai, không có trung tâm, không phơi mở cái ǵ. Nhà văn có thể tin tưởng rằng ḿnh tự khẳng định trong thứ ngôn ngữ đó nhưng thực ra điều hắn khẳng định lại hoàn toàn không có ǵ thuộc về bản ngă hắn. “Trong chừng mực, nhà văn, khi hắn trao quyền cho cái được viết ra, th́ hắn chẳng bao giờ có thể bày tỏ nữa và hắn cũng không thể cầu viện bạn, hay để cho kẻ khác nói. Nơi hắn hiện hữu, chỉ có hữu cất tiếng, - điều này có nghĩa lời nói cũng không cất tiếng, nhưng nó là/hiện hữu, và nó cũng lại tự trao tặng ḿnh cho tính chất thụ động thuần túy của hữu.”(10)
_______________________________
(1) Các dịch giả và chuyên gia khảo về Blanchot
người Mỹ dịch ‘désœuvrement’ sang tiếng Anh
là ‘worklessness’. Trong truyện kể L’Arrêt de mort Blanchot
mô tả nhân vật tự sự ở trong trạng thái
‘giải tác’: Sau khi viết xong câu truyện ḿnh muốn viết
lại lập tức xóa bỏ hết. Khái niệm désœuvrement
cần được hiểu rơ trong khuôn khổ quan niệm
của Blanchot về khả hữu của bất khả
hữu của văn chương và sự bất khả của
khởi đầu cũng như kết thúc truyện kể.
Từ sau những năm 1960 Blanchot không c̣n dùng khái niệm
này mà thay vào đó dùng khái niệm ‘absence de livre/sự
vắng mặt quyển sách’ cũng có nghĩa ‘absence
d’œuvre/sự vắng mặt tácphẩm’ hiểu như
quyển sách vốn dĩ đă nằm dưới sự
xóa bỏ. Chúng tôi sẽ trở lại chủ đề
này khi đọc bài L’Absence de livre’ trong quyển L’Entretin
infini [EI].
(2) Maurice Blanchot, L’espace littéraire, trang 14: L’écrivain ne sait jamais si l’œuvre est faite. Ce qu’il a terminé en un livre, il le recommence ou le détruit en un autre.
(3) Sđd, 15: Celui qui vit dans la dépendance de l’œuvre, soit pour l’écrire, soit pout la lire, appartient à la solitude de ce qui n’exprime que le mot être: mot que langage abrite en le dissimulant ou fait apparaître en disparaissant dans le vide silencieux de l’œuvre.
(4) Sđd, 15: L’œuvre est solitaire: cela ne signifie pas qu’elle reste incommunicable, que le lecteur lui manque. Mais qui la lit entre dans cette affirmation de la solitude de l’œuvre, comme celui qui l’écrit appartient au risque de cette solitude.
(5) Sđd, 16: L’écrivain appartient à l’œuvre, mais ce qui lui appartient, c’est seulement un livre, un amas muet de mots stériles, ce qu’il y a de plus insignificant au monde. L’écrivain qui éprouve ce vide, croit seulement que l’œuvre est inachevée, et qu’il croit qu’un peu plus de travail, la chance d’instants favorables lui permettront, à lui seul, d’en finir. Il se remet donc à l’œuvre. Mais ce qu’il veut terminer à lui seul, reste l’interminable, l’associe à un travail illusoire. Et l’œuvre, à la fin, l’ignore, se referme sur son absence, dans l’affirmation impersonnelle, anonyme qu’elle est – et rien de plus. Ce que l’on traduit en remarquant que l’artiste, ne terminant son œuvre qu’au moment où il meurt, ne la connaît jamais. Remarque qu’il faut peut-être retourner, car l’écrivain ne serait-il pas mort dès que l’œuvre existe, comme il en a parfois lui-même le presentiment d’un désœuvrement des plus étranges.
(6) Sđd, 17: L’abrupt Noli me legere fait surgir, là où il n’y a encore qu’un livre, déjà l’horizon d’une puissance autre. Expérience fuyante, quoique immédiate. Ce n’est pas la force d’un interdit, c’est, à travers le jeu et le sens des mots, l’affirmation insistante, rude et poignant que ce qui est là, dans la présence globale d’un texte definitive, se refuse cependant, est le vide rude et mordant du refus, ou bien exclut, avec l’autorité de l’indifférence, celui qui, l’ayant écrit, veut encore le ressaisir à neuf par la lecture.
(7) Sđd, 19: Il nous faut recommencer à questioner. Nous avons dit: l’écrivain appartient à l’œuvre, mais ce qui lui appartient, ce qu’il termine à lui seul, c’est seulement un livre. “A lui seul” a pour réponse la restriction du “seulement”.
(8) Sđd, 20: Nullement. Et l’œuvre n’est jamais en vue de quoi l’on peut écrire (en vue de quoi l’on se rapporterait à ce qui s’écrit comme à l’exercice d’un pouvoir.
Que la tâche de l’écrivain prenne fin avec sa vie, c’est ce qui dissimule que, par cette tâche, sa vie glisse au malheur de l’infini.
(9) Sđd, 20: Écrire, c’est briser le lien qui unit la parole à moi-même, briser le rapport qui, me faisant parler vers “toi”, me donne parole dans l’entente que cette parole reçoit de toi, car elle t’interpelle, elle est l’interpellation qui commence en moi parce qu’elle finit en toi. Écrire, c’est romper ce lien. C’est, en outre, retirer le langage du cours du monde, le dessaisir de ce qui fait de lui un pouvoir par lequel, si je parle, c’est le monde qui se parle, c’est le jour s’édifie par le travail, l’action et le temps.
(10) Sđd, 21: Dans la mesure où, écrivain, il fait droit à ce qui s’écrit, il ne peut plus jamais s’exprimer et il ne peut pas davantage en appeler à toi, ni encore donner la parole à autrui. Là où il est, seul parle l’être, - ce qui signifie que la parole ne parle plus, mais est, mais se voue à la pure passivité de l’être.
(c̣n tiếp)
đào trung đąo
http://www.gio-o.com/daotrungdao.html
© gio-o.com 2014