đào trung đąo

3-Zero

± triết học ± lư thuyết văn chương ± phê b́nh văn chương

cùng một khác

(6)

 

 

Kỳ 1, Kỳ 2, Kỳ 3, Kỳ 4, Kỳ 5,

 

 

■   Có thể coi Barthes là một sự biến lư thuyết và phê b́nh văn chương. Cũng như những sự biến khác, ‘sự biến Barthes’ khá phức tạp, khó nắm bắt. V́ không chỉ có một Barthes mà có nhiều Barthes nên người đọc cũng như phê b́nh Barthes bị rối trí, lạc đường khi theo dơi Barthes trên lộ tŕnh hoạt động văn chương hơn ba mươi năm của Barthes. Điều này đưa đến những hậu quả hoặc ngộ nhận, thiếu sót, hay đôi khi phê phán tiêu cực về giá trị công tŕnh của Barthes sau khi Barthes chết đi. (1) Có thể nói Barthes là một nhân vật văn chương có diện mạo luôn thay đổi ở mỗi thời điểm dấn thân tả xung hữu đột “đánh trận” (batailler) trong trường văn tự (le champ de l’écriture) - theo cách nói của chính Barthes – và việc liên tục đổi hướng là khó tránh khỏi, trước hết do sự cạn kiệt sinh lực của ư thức hệ Mác-xit và chủ thuyết hiện sinh dấn thân của Sartre bắt đầu từ những thập niên sau của thế kỷ 20 ở Pháp: văn chương không những không có ư nghĩa lịch sử mà c̣n bị Lịch sử triệt hủy. Tuy nhiên, ở mỗi thời điểm mỗi giai đoạn Barthes đều để lại những dấu ấn thời đại khó phai mờ. Nhưng Barthes khi đă lục tuần t́m được sự đồng cảm ở Blanchot (2) nhận ra được ở vào “quăng giữa đời” của nhà văn th́ chỉ c̣n có hai chọn lựa: hoặc Qui ẩn (Retraite) hoặc tha thiết yêu cái Trung tính (la dilection du Neutre)(3) nghĩa là tiếp tục xung kích trong trường văn trận bút để tự khẳng định. Barthes đă chọn con đường thứ hai bằng những giáo tŕnh hay hội thảo văn chương từ những năm giữa thập niên 70s (đó cũng là cách Barthes muốn chấm dứt kiểu viết những đoạn rời – tất cả những sách của Barthes đều là tuyển tập những bài luận văn hay thuyết tŕnh ngắn - để bắt tay viết tác phẩm dài hơi như Proust) cho đến khi tạ thế v́ tai nạn bị đụng xe ngay phía trước cửa Collège de France. Barthes là con người của những dự án tương lai: Theo tiết lộ của những đệ tử và thân hữu ngay khi c̣n đang bận rộn với những giáo tŕnh Barthes đă chuẩn bị cho một công tŕnh nghiên cứu về Stendhal. (4) Có thể coi hai chọn lựa trên là những kiểu mẫu (examples)? Có và không. Có v́ đó là bước đi đến giới hạn. Và không v́ khi đi đến giới hạn th́ đồng thời cũng có nghĩa không c̣n là kiểu mẫu nữa v́ sự biến là cái ‘chỉ có một’. Nghịch lư này thấy rơ trong cuộc đời và tác phẩm của Barthes. Câu hỏi kế tiếp: Phải chăng sự biến văn chương có bản chất nghịch lư v́ đó là tuyến/đường đi từ bất khả hữu để tới khả hữu, và ngược lại, nghĩa là từ văn chương khi chưa là đến văn chương đă là, và ngược lại từ văn chương của quá khứ đă là (những tác phẩm đă trụ lại với thời gian) viết/văn tự hôm nay lên đường làm văn chương tương lai sẽ là, dù thành công hay thất bại. Hơn nữa chính người viết những tác phẩm đă là thành tựu văn chương cũng đă đi từ bất khả hữu đến khả hữu. Nhân vật văn chương có cuộc đời và văn tự vốn hữu hạn nhưng lại muốn đạt tới cái vô hạn của văn chương → Sự Vắng mặt của Quyển sách. Nan đề: Văn chương=sự thất bại trong vinh quang như nhận xét của William Faulkner. Văn chương= sự lập lại (répétition) vô tận không mệt mỏi để rồi cạn kiệt khi đối diện với cái chết như số phần của nhà văn?

   Như tựa đề nêu ra La préparation du roman/Chuẩn bị của tiểu thuyết cho thấy đây không phải là một quyển sách về lư thuyết tiểu thuyết mà là những bài nói của Barthes trong địa vị một người bị ám ảnh bởi Ham muốn Viết (Vouloir-Écrire, Barthes dùng một từ La tinh cổ Scripturire để mô tả lực đẩy của viết) một quyển tiểu thuyết (của tôi) như trong mơ tưởng (Fantasme) nên Giả bộ (Simulation) - giả bộ chứ không phải là bắt chước (Imitation) - viết một quyển tiểu thuyết bằng cách đồng hóa ḿnh với một tiểu thuyết gia vĩ đại đă hoàn thành một quyển tiểu thuyết. Barthes cảnh báo: “Coi chừng: nhà văn vĩ đại không phải là kẻ nào đó ḿnh tự so sánh với, nhưng là kẻ người ta có thể, nếu như người ta muốn, không ít th́ nhiều phần nào đó, tự đồng hóa với.” (5) Nhưng ở đây Barthes không chỉ đồng hóa/nhập ḿnh với Proust mà c̣n đồng hóa với Người kể truyện trong À la Recherche du Temps perdu/Hồi tưởng Thời gian đă mất v́ quyển tiểu thuyết này là truyện trong truyện (mise-en-abyme), trong đó Proust kể lại chuyện Kẻ Tự sự kể truyện kinh nghiệm viết văn của ḿnh ra ra sao trong khi chính Proust lại là người viết ra quyển tiểu thuyết này. À la Recherche → tiểu thuyết của tiểu thuyết, Proust→ nhà văn của nhà văn. Barthes trong quá khứ thực sự không viết nhiều về Proust, chỉ có ba lần không kể đây đó trong những bài luận văn, thuyết tŕnh hay phỏng vấn tên Proust chỉ được nhắc đến thoáng qua. Lần đầu vào năm 1967 trong bài ‘Proust và những cái tên/Proust et les noms’ nói về sự quan trọng trong việc quyết định đặt tên những nhân vật tiểu thuyết của Proust. Quan trọng v́ trước hết để có thể biến đổi bất tận tên những nhân vật trong quyển tiểu thuyết sẽ viết. Sau nữa là có thể tŕ hoăn ư nghĩa của những cái tên này bằng cách cho nó một hàm nghĩa hay nghĩa biểu trưng thôi chứ không chỉ định một nghĩa cố định. Lần thứ nh́ năm 1978  trong bài thuyết tŕnh ‘Bấy lâu nay tôi thường đi ngủ sớm’ Barthes không ngần ngại viết ‘Proust và tôi/Proust et moi’ tự đặt ḿnh vào vị trí ngang hàng với  Proust như tác giả của quyển tiểu thuyết sẽ viết trong tương lai (Barthes minh xác: việc đặt ḿnh ngang hàng Proust không phải có ư so sánh ḿnh với Proust nhưng là đồng hóa ḿnh với Proust), Proust kẻ khi th́ buồn khổ, khi th́ khao khát, nhưng vẫn là người thợ cấy cần cù ham muốn bắt tay làm một công việc anh ta nhận thức được là có tính cách tuyệt đối ngay từ khởi đầu.(6) Lần thứ ba trong một bài ngắn tựa dề Ça prend/Được đấy vào năm 1979 lấy từ những ghi chú cho giáo tŕnh La préparation du roman nói về việc Proust từ một kẻ viết khảo luận thất bại trở thành một tiểu thuyết gia thành công ra sao. Tại sao Barthes đồng hóa ḿnh với Proust? Ngoài sự say mê đọc bộ trường thiên tiểu thuyết này c̣n có những lư do riêng tư do những trùng hợp ngẫu nhiên giữa hai cuộc đời: Cả hai cùng có nỗi đau ḷng khôn tả, biến cố bi thương một đời: người mẹ Proust hết ḷng thương yêu mất năm 1905, và mẹ của Barthes mất vào tháng Mười 1977. Kế đến, Proust đă trải qua những khó khăn tưởng chừng không vượt qua được khi muốn chuyển từ viết khảo luận (quyển Contre Sainte-Beuve) sang viết tiểu thuyết, c̣n Barthes tuy cũng có ước vọng tương tự nhưng lại không thành công như Proust trong chuyển hướng thể loại này (viết quyển tiểu thuyết Nova Vita bất thành) chính v́ vậy Barthes hiểu được t́nh cảm chĩu nặng của bất lực và nỗ lực vượt qua bất lực. Ngoài ra cũng c̣n một chi tiết không thể bỏ qua: Maurice Blanchot được coi là người viết thế giá về tiểu thuyết nhất là về Proust và Kafka và thơ Mallarmé ở những năm 50s nên nhiều phần Barthes đă đọc Blanchot từ hồi đó và c̣n đọc lại trong những năm 70s như chính lời Barthes đă nói ra!

   Barthes cho rằng Tiểu thuyết là một H́nh thức được mơ tưởng (la Forme fantasmée) và viết tiểu thuyết phải dấu diếm, lén lút (clandestinité)! Sự Mơ tưởng của nỗi Sướng khoái Lần đầu (Premier Plaisir, nỗi Sướng khoái Lần đầu theo nghĩa dục t́nh chạy suốt cuộc đời một người) lan tỏa, tự vượt lên, tự cao thượng hóa theo Barthes là điểm tựa cho việc viết. “Những vết thương cùa Ham muốn có thể được gom góp lại, được vượt lên bởi ư nghĩ “làm một quyển Tiểu thuyết”, vượt lên trên những bất ngờ của sự thất bại bằng một nhiệm vụ lớn, Một Ham muốn Tổng quát có đối tượng là thế giới toàn phần. Tiểu thuyết: một thứ Khẩn cầu lớn → cái cảm tưởng ta không thuộc về một nơi chốn nào, vô xứ. Phải chăng văn tự là quê hương duy nhất của tôi? Tiểu thuyết (như “được hoàn tất”, agendum): hiện lên như Tối Thiện (Saint Augustin, Dante:Il Sommo Bene, Saint Thomas, kế đến là tâm phân học) (7) Viết tiểu thuyết có nghĩa nói về (những) người ḿnh thương yêu, chứng giám cho họ, làm họ thành bất tử. Trường hợp Proust đó là Mẹ/Bà những đối tượng của t́nh yêu duy nhất trong À la Recherche. Nhưng Proust không đặt họ ở vị trí trung tâm của quyển tiểu thuyết mà coi đó là những nơi chốn của t́nh yêu thu hút như nam châm mọi nhân vật, mọi nơi chốn khác. V́ lẽ đó Barthes cho rằng Tiểu Thuyết có cấu trúc làm trung gian (Roman: structure de médiation). Tiểu thuyết yêu thương thế giới, ôm thế giới vào ḷng, t́nh yêu của tiểu thuyết không là t́nh cảm sướt mướt ủy mỵ v́ đó là t́nh yêu đă được trung gian hóa thành t́nh yêu dành cho tha nhân, và cũng v́ vậy tiểu thuyết chống lại sự khô cằn của trái tim. Tiểu thuyết không xác nhận cũng không phủ nhận hay tra hỏi do đó nó chỉ là ‘nói’, ‘nói’ (parler, parler), nói với (s’adresser), kêu gọi (interpeller), diễn ngôn của tiểu thuyết không làm người đọc sợ hăi, không ngoa ngôn, không đặt áp lực lên người đọc. Để viết được tiểu thuyết, theo Barthes ta cần có những năng khiếu (dispositions) riêng (Barthes thú nhận ḿnh chỉ có sự đam mê nhưng lại thiếu sự bền bỉ) quan trọng nhất là Kư ức tức là khả năng hồi ức: À la Recherche của Proust là một Tiểu thuyết hồi tưởng (Roman anamnésique) [theo cách giải thích này của Barthes th́ dịch tên quyển tiếu thuyết của Proust là Hồi tưởng Thời gian đă mất có phần sát nghĩa hơn] nhưng kư ức của Proust là thứ kư ức không hẳn rạch ṛi rơ nét (acuité) nhưng do những bùng phát sống động, những bùng phát này không liên tục, không được nối kết bởi Thời gian, đảo nghịch trật tự thời gian (mémoire proustienne: mémoire par éclats vifs, discontinus, non liés par le Temps, subversion de la chronologie). (8) Cái được đảo lộn không phải là tính rạch ṛi rơ nét của kỷ niệm mà là trật tự của những kỷ niệm.      

__________________________

(1)     Chẳng hạn Tzvetan Todorov trong quyển Critique de la critique (trang 76) phê phán Barthes thay đổi quan điểm hoài hủy “ông ta cứ đưa ra một ư tưởng rồi tự ḿnh lại chẳng quan tâm đến nữa.” Phê phán này của Todorov cũng dễ hiểu v́ trong quá khứ Barthes ở giai đoạn thuyết cơ cấu là đồng minh củaTodorov nhưng khi Barthes  bước sang  giai đoạn hậu-cấu trúc c̣n Todorov vẫn bảo lưu quan điểm nghiên cứu văn chương theo thuyết cấu trúc. Không khó nhận ra thuyết cấu trúc là nơi trú ẩn xa lánh Hegel. Nhưng như Derrida đă chỉ ra thuyết cấu trúc lại rơi vào nhị phân tiếng nói/chữ viết, cái chỉ nghĩa/cái được chỉ nghĩa, là nhị phân vết tích của hiện diện (présence) cốt tủy của siêu h́nh học cổ điển. Từ bỏ thuyết cấu trúc, chọn con đường khác, ít nhất Barthes cũng chứng tỏ đă nhạy bén trước bế tắc của thuyết cấu trúc về mặt lư thuyết. Một lư do khác: Barthes là thân hữu và đồng chí của những người của tạp Critique và nhóm Tel Quel như Bataille, Sollers, Kristeva, Robbe-Griller…

(2)     Barthes trích dẫn nguyên đoạn văn của Blanchot trong bài mở đầu giáo tŕnh La Préparation du Roman :Maurice Blanchot, Entretien infini, Galliamard 1969, XII : “Có một lúc nào đó trong đời của một người – do đó cũng là đời của mọi người – khi mà mọi thứ đă xong xuôi, những quyển sách đă được viết ra, vũ trụ đă im tiếng, mọi sinh linh đă yên nghỉ. Lúc đó chỉ c̣n có mỗi một nhiệm vụ là tuyên bố điều đó ra: Cái đó dễ thôi. Nhưng như thể lời nói thêm vào này có nguy cơ làm mất sự quân b́nh – và t́m ở đâu ra sức mạnh để nói lời đó ra? và thêm vào đó t́m ở đâu được một chỗ cho lời nói này? -, người ta  không nói câu đó ra, và như vậy là nhiệm vụ hóa ra chưa hoàn thành. Người ta chỉ viết cái mà tôi vừa viết ra, cuối cùng th́ người ta cũng chẳng viết lời nói đó ra nữa.” (Il y a un moment dans la vie d’un homme - par conséquent des hommes – où tout est achevé, les livres écrits, l’univers silencieux, les êtres en repos. Il ne reste plus que la tâche de l’annoncer : c’est facile. Mais comme cette parole supplémentaire risque de romper l’équilibre – et où trouver la force pour la dire? où trouver encore une place pour elle? -, on ne la prononce pas, et la tâche reste inachevée. On écrit seulement ce que je viens d’écrire, finalement on ne l’écrit pas non plus”

(3)     Roland Barthes, La préparation du roman, 30: Bởi đối diện với “tiếng kḥ khè” của đời sống bươn trải chỉ có hai con đường mở ra: 1) hoặc là  im lặng, ngơi nghỉ, qui ẩn (“Ngồi thinh lặng, không làm ǵ hết, mùa xuân cứ tới, và cỏ cứ mọc”); 2) hoặc lại tiến bước theo một hướng khác, nghĩa là xung trận, đặt trọn, trồng cây, với diều nghịch thường ai cũng đă biết: “Xây một căn nhà th́ cũng được thôi, nhưng đến tuổi này mà c̣n đi trồng cây th́ quả là kỳ cục!” (Car face au “ronron” de la gestion, deux voies s’ouvrent:1) ou bien le silence, le repos, le retrait (“Assis paisiblement, sans rien faire, le printemps vient, et l’herbe croît d’elle-même”); 2)ou bien reprendre la marche dans une autre direction, c’est-à-dire baitailler, investir, planter, avec le paradoxe bien connue: “Passe encore de batir, mais planter à cet age!”) Về khái niệm cái Trung tính rơ ràng Barthes đă chịu ảnh hưởng của Blanchot v́ Blanchot đă nói đến khái niệm này từ hơn 30 năm trước Barthes trong các luận văn cũng như truyện kể (récits),  nhất là trong phần cuối quyển Entretien infini/Kết đàm vô tận. Tuy nhiên quan niệm về cái Trung tính của hai người có những điểm khác nhau căn bản. Một cách tổng quát khái niệm cái Trung tính của Blanchot đậm màu sắc triết lư (Blanchot suy tưởng về quan niệm của Emmanuel Levinas về ‘il y a’ và về ‘cái không biết/le non-savoir’ của Georges Bataille   trong khi quan niệm của Barthes nghiêng về ngôn ngữ hơn. (Barthes thời trẻ học ngành văn chương ở Sorbonne, và thường không đọc trực tiếp tác phẩm của các triết gia, chẳng hạn Barthes ‘hiểu Nietszche qua đọc Deleuze!)

(4)     Những giáo tŕnh quan trọng nhất của Barthes: Le discours amoureux ở École pratique des hautes etudes 1974-1976, Comment vivre ensemble (1976-1977), le Neutre (1977-1978), và La préparation du roman I & II (1978-1979 & 1979-1980) ở Collège de France.

(5)     Roland Barthes, La préparation du roman, 25: Attention: le grand écrivain n’est pas quelq’un à qui on se compare, mais à qui on peut, l’on veut, plus ou moins partiellement, d’identifier.

(6)     Roland Barthes, Le bruissement de la langue, bài Longtemps, je me couché de bonne heure.

(7)     Roland Barthes, La préparation du roman, 39-40: Les blessures du Désir peuvent être recueillies, transcendées, par l’idée de “faire un Roman”, de dépasser les contingences de l’échec par une grande tâche, un Désir Général dont l’objet est le monde entier. Roman: sorte de grand Recours → sentiment qu’on ne se sent bien nulle part. L’écriture serait donc ma seule patrie? Roman (en tant que “à faire”, agendum): apparaît comme Souverain Bien (saint Augustin, Dante: Il Sommo Bene, saint Thomas, puis la psychanalyse)

(8)     Trong cuộc phỏng vấn với Christine Eff đăng trên tờ Le Monde-Chủ nhật 16 tháng 9, 1979 Barthes nhân trả lời câu hỏi “Có phải Proust gọi Thời gian đă mất là sự ỳ ra, lười chảy thây, không làm ǵ hết  một cách có suy nghĩ không (thoughtful idleness)?” đă giải thích thêm về công việc của nhà văn và kư ức theo của Proust. Về kư ức, theo Barthes th́ “kiệt tác của Proust được xây dựng, nếu không phải hoàn toàn trên, th́ ít nhất cũng cùng với, một lư thuyết về kư ức không tự động (mémoire involontaire), về sự trồi lên mặt của những kư ức và cảm giác. Và sự hồi tưởng tự trôi nổi này rơ ràng có liên hệ tới một thứ tŕ trệ, ù lỳ không làm ǵ cả. Sự ‘ỳ ra’ này Proust dùng một ẩn dụ để mô tả giống như miếng bánh Madeleine từ từ tan trong miệng tuy miệng ‘ỳ ra’ không nhai, chủ thể tự để ḿnh tan loăng qua kư ức, cho nên đó là kư ức không tự ư. Nhưng Barthes cũng minh xác việc viết văn không phải là một hoạt động có thể biếng nhác được v́ Proust đă dùng h́nh ảnh bông hoa giấy Nhật cánh khép chặt khi khô nhưng khi bỏ xuống nước sẽ nở dần dần thế nên nhà văn có ‘ỳ ra’ trong một thời gian th́ thời khoảng này cũng là một thời khoảng của công việc viết. Proust cũng dùng một ẩn dụ khác để nói về nhà văn: ông ta viết một tác phẩm cũng giống như người thợ may khâu một cái áo. Ẩn dụ này có nghĩa nhà văn không ngừng viết, tỉ mỷ kỹ lưỡng, cướp đoạt, lập thành, hoạt động ráo riết giống như Proust nửa trước đời đă ỳ ra không làm ǵ để rồi nửa đời sau tự giam ḿnh trong pḥng kín (Proust nằm trên giường để viết) viết không ngưng nghỉ quyển Hồi tưởng. (Xem: Roland Barthes, The Grain of the Voice, Interviews 1962-1980 trang 343.)

 

(c̣n tiếp)

 

đào trung đąo

 

http://www.gio-o.com/daotrungdao.html

 

 

© gio-o.com 2013