đào trung đąo
3-Zero
± triết học ± lư thuyết văn chương ± phê b́nh văn chương
≤ cùng một khác
(19)
Kỳ 1, Kỳ 2, Kỳ 3, Kỳ 4, Kỳ 5, Kỳ 6, Kỳ 7, Kỳ 8, Kỳ 9, Kỳ 10, Kỳ 11, Kỳ 12, Kỳ 13, Kỳ 14, Kỳ 15, Kỳ 16, Kỳ 17, Kỳ 18, Kỳ 19,
Trước khi chuyển sang phần thứ nh́ ‘La Praxis d’Écriture/Thực hành của Văn tự/Viết’ của Thử Nghiệm Thứ nh́ Barthes để khá nhiều thời gian để bàn về mối tương quan giữa Tác phẩm với Tác gia (hay cuộc đời của Tác gia) v́ đây là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu của phê b́nh. Vấn đề đặt ra ra là: khi phê b́nh tác phẩm phải chăng chỉ nên căn cứ vào tác phẩm/bản văn chứ không cần xét tới tác gia, hay nếu xét tới tác gia th́ xét ở góc độ nào? Đây là một vấn đề gây tranh luận trong suốt nủa sau thế kỷ 20 với nhiều luồng ư kiến khác nhau. Dưới tiêu đề ‘La Vie comme Œuvre/Cuộc đời như tác phẩm’ Barthes đưa ra một giải quyết biện chứng về sự cạnh tranh, xung đột giữa Tác phẩm và Cuộc đời (tác giả). Như chúng ta đă biết vào năm 1967 khi c̣n nhiệt thành với tân-Macxit, phê b́nh hậu-cấu-trúc và kư hiệu học Barthes đă viết bài ‘La mort de l’auteur/Cái chết của tác gia’ theo trào lưu văn chương Pháp ở thập niên 60 chịu ảnh hưởng của Mallarmé xóa bỏ diện mạo tác gia v́ lợi ích của bản văn, cho rằng chính ngôn ngữ cất tiếng trong tác phẩm chứ không phải tác gia, hoặc quan niệm bản văn như tiến tŕnh phát biểu thuần túy qui chiếu về thân xác của người viết (không qui chiếu về chủ thể siêu h́nh hay tâm lư), hay đứng trên lư thuyết coi bản văn như cấu trúc vượt lên trên tác gia.(1) Trong bài này Barthes cho rằng tác gia là là một nhân vật của thời hiện đại được sản xuất bởi xă hội khi xă hội chuyển ḿnh từ Trung cổ sang Hiện đại với chủ nghĩa duy nghiệm Anh, chủ nghĩa duy lư Pháp và niềm tin cá nhân dai dẳng từ thời Phục hưng, và sau đó do hệ tư tưởng tư bản. Từ đó tác gia ngự trị trong văn học nghệ thuật, phê b́nh văn chương tập trung một cách độc đoán trên cá nhân, lịch sử, đam mê của tác gia. Tác gia trở thành một thứ Thượng đế. Nhưng rồi tác gia mất ngôi với những khám phá của khoa ngữ học bằng phân tích ngôn ngữ như một dụng cụ cho thấy ngôn-hành (speech-act) là một diễn tiến trống rỗng, hoạt động hoàn toàn không cần tới vai tṛ cá nhân để lấp đầy diễn tiến này: tóm lại tác gia không là ǵ khác một kẻ viết chữ. Barthes cho rằng người ghi chữ (scripteur, tác gia) được sinh ra cùng lúc với bản văn hắn viết ra v́ viết/văn tự không c̣n được hiểu như thao tác ghi chép, quan sát, hay dung tượng (représentation) nhưng là diễn tác (performance). Người ghi chữ thời nay đă chôn cất tác gia. Thế nên việc thông diễn bản văn không c̣n là việc giải mă, chỉ định một tác gia cho một bản văn là đặt một cái phanh/thắng lên bản văn, cung cấp cho bản văn một chỉ nghĩa (signifíé finale) chung cuộc, đế chế của tác gia như vậy cũng là đế chế của nhà phê b́nh. Phê b́nh hôm nay tháo gỡ bản văn, xóa bỏ khuôn mặt tác gia, viết phê b́nh tuy luôn luôn đưa ra ư nghĩa bản văn nhưng cũng để xóa bỏ ư nghĩa.
Đến cuối đời với La Plaisir du Texte và nhất là La Préparation du roman Barthes từ bỏ quan niệm về tác gia này, đón chào ‘Sự trở về của tác gia/Retour de l’auteur’ và nhấn mạnh tới sự quan trọng trong việc xem xét những Nhật kư, tiểu sử tác gia trong hoạt động phê b́nh văn chương. Sống trong khí hậu văn chương tư tưởng Pháp nửa cuối thế kỷ 20 chúng ta nhận ra tư tưởng phê b́nh của Barthes luôn chuyển biến để bắt kịp thời đại. Barthes không những sáng tạo mà c̣n điều chỉnh, không cố chấp bảo lưu một số quan điểm trước đó của ḿnh, nhận thức được những sai lầm hay quá độ để sửa đổi. Hăy đưa ra một vài thí dụ: năm 1952 Sartre phê phán tâm phân học và chủ nghĩa Marx trong nghiên cứu văn học, viết quyển Saint Genet nhằm “Chứng minh những giới hạn của diễn giải tâm phân học và minh giải Mác-xit và rằng chỉ có tự do là có thể cứu xét một con người trong toàn thể tính của hắn.”(2) [Có thể nói ngày nay trong những tác phẩm của Sartre, ba quyển Saint Genet, L’idiot de la famile (viết về Flaubert) và Les Mots là những quyển đáng đọc lại hơn cả]. Với L’idiot de la famile Sartre khi viết về Flaubert đă vạch ra một quan điểm thông diễn luận văn chương mới: “Quyển sách này có ư định chứng thực rằng tính chất bất khả thu giảm chỉ là cái bề ngoài, và rằng mỗi thông tin khi được đặt vào vị trí của nó sẽ trở thành một phần của một toàn thể không ngừng tự tạo thành và, cùng lúc, phơi bày ra tính chất đồng nhất sâu thẳm cùng với tất cả những phần khác.” (3) Michel Foucault trong bài thuyết tŕnh ở Société française de philosophie vào tháng Hai, 1967 trong văn cảnh giải thích về ‘cái chết của con người’ trong quyển Les Mots et les Choses/Chữ và Vật để xóa bỏ những ngộ nhận vế cái chết của con người hiểu như một khái niệm cũng như vấn đề liên hệ là cái chết của tác gia trong bài ‘Qu’est-ce qu’un auteur?/Một tác gia là ǵ?’(4)
Trở về với tác gia tức là ngoài việc đọc tác phẩm Barthes chú ư nhiều hơn đến việc đọc những Nhật kư, Tiểu sử, Phỏng vấn cá nhân, Hồi kư v.v… của các tác giả. Nhưng Barhtes thú nhận đă vấp phải những nghịch lư: thích đọc cuộc đời của số một nhà văn hơn là đọc tác phẩm của họ (5), đôi khi tưởng tượng ra một Tác gia bệnh hoạn đă chủ ư viết ra những tác phẩm chỉ để có cái quyền, một ngày nào đó, viết tiểu sử của ḿnh, sau hết Barthes thú nhận rất ham muốn viết một cuốn tiểu sử của ḿnh nhưng lại muốn cuốn tiểu sử này là tiểu sử của một nhạc sĩ như Schumann chẳng hạn, nhưng v́ không biết tiếng Đức nên đành từ bỏ ư định này. Barthes đưa ra hai thí dụ về đọc nhật kư của André Gide và Marcel Proust để chứng minh sự cần thiết đọc những bản viết như Nhật kư của nhà văn. Theo Barthes Nhật kư của Gide là một tác phẩm vĩ đại được nhiều người thích đọc hơn các tác phẩm khác của Gide. “Thật khó trả lời tại sao bởi v́ bản văn đó là một bản văn rất phong phú; nhưng chính sự ưa thích này là lư do hiện đại của sự phức tạp của mạng lưới phát biểu, nghĩa là, những cách sử dụng, những vai tṛ của cái Tôi: sự phúc tạp này ở nhiều cấp độ khác nhau: 1) cái Tôi thành thực. 2) Tôi là một sự thành thực giả tạo. 3) Sự thành thực không thích đáng, nó trở thành một phẩm chất đáng ngại của bản văn nên “được đóng trong ngoặc kép”. Nhưng với Nhật kư của Gide nguời ta có thể nói khác hẳn, rằng cái hiện rơ ra chính là tác giả của Nhật kư không phải là một chứng nhân (như trong trường hợp anh em nhà Goncourt), nhưng là một diễn viên của viết/văn tự (nhưng điều gây hiểu lầm là v́ văn tự này cổ điển, lạc hậu và “quí giá”)→Có lẽ chính Nhật kư cho cái toàn thể-Gide một ư nghĩa: chính nó tạo ra một toàn thể sáng tạo của Đời sống + Tác phẩm; tác phẩm [của Gide] không phải là những tác phẩm vĩ đại, cuộc đời [của Gide] chẳng có ǵ là oai hùng cả (đó là cuộc đời của một người kẻ sống bằng lương bổng của người không có nghề chuyên môn, yêu văn chương và có vài người bạn “quí”); nhưng cuộc đời đó đ̣i hỏi phải được đọc như hoàn toàn hướng tới sự cấu thành tác phẩm: và chính sức căng, sự khẳng định, sự thường hằng này là một thành tựu vậy.”(6) Về Proust, Barthes cho rằng trong khung cảnh lịch sử hiện nay việc nghiên cứu nhà văn này càng ngày càng rơ rệt hơn, cho thấy Proust đánh dấu sự “bước vào” văn chương dũng cảm và mạnh mẽ của tác gia, của chủ thể viết như một nhà viết tiểu sử (biographologue). Tuy nhiên tác phẩm của Proust không rơi vào phạm trù tiểu sử như Nhật kư hay Hồi kư mà ngược lại được dệt từ Proust, từ những nơi chốn, bạn bè, gia đ́nh của Proust, rơ rệt tất cả đều có đấy trong tiểu thuyết của Proust bất chấp những lời bào chữa khiếm diện có tính cách lư thuyết (alibis théoriques) như cô đọng (condensations), không có nguồn gốc từ đời sống thực v.v…Theo Barthes “Cũng là b́nh thường thôi, bởi vấn đề của Proust, chính là để t́m lại Thời gian đă mất của ḿnh (chứ không phải Thời gian nói chung)→ tác phẩm của Proust: không phài là một triết lư, nhưng là một sự Cứu chuộc, một thứ “ai lo phận người nấy” riêng tư: “Làm sao tôi có thể sống sót được sau cái chết của một người tôi thương yêu?” (Câu trả lời: bằng cách viết về sự co rút của Thời gian, trước và sau cái chết của người Mẹ). Người ta có thể nói về À la Recherche du temps perdu/Hồi tưởng thời gian đă mất = một lịch sử tượng trưng của đời sống, một tiểu sử tượng trưng; không có truyện kể theo thứ tự thời gian: đó không phải là quyển ghi lại đời sống theo trật tự thời gian → Sự phân biệt (hay sự lẫn lộn) giữa Marcel và Người kể truyện chẳng ích lợi ǵ cả→ Sự đổi mới mối quan hệ Đời Sống/Tác phẩm, vị trí của đời sống như tác phẩm dần dần hiện ra, với một độ lùi, như mộtsự di chuyển lịch sử thực sự những giá trị, những thiên kiến văn chương; ngày nay chính nơi Proust, cường độ, sức mạnh của tiểu sử quyến rũ và lấn lướt (những quyển tiểu sử, albums, mô tả h́nh tượng; ấn bản Pléiade bán hết sạch, không t́m được nữa) → Sự chuyển vị của huyền thoại Proust về hướng sùng bái chủ thể tiểu sử → đó là cái tôi đặt tên là Chủ nghĩa Marcel (khác hẳn chủ nghĩa Proust.”(7)
_____________________________
(1) Roland Barthes, “La mort de l’auteur”, Aspen Magazine, Manteia, 1967, sau đó được Bathes cho in vào quyển Le bruisement de la langue, Essais critiques IV, nxb Seuil, 1984. Bản tiếng Anh The Death of the Author của Richard Howard trong The Rustle of language, University of Berkeley Press 1989, trang 49-55.
(2) Jean-Paul Sartre, Saint Génet, Commédien et Martyr: Montrer les limites de l’interprétation psychanalytique et de l’explication marxiste et que seul la liberté peut rendre compte d’une personne en sa totalité
(3) J-P. Sartre, L’idiot de la famille I, Préface: Ce livre tente de prouver que l’irréductibilité n’est qu’apparente et que chaque information mise en sa place devient la portion d’un tout qui ne cesse de se faire et, du même coup, révèle son homogénéité profonde avec toutes les autres.
(4) Michel Foucault, Dits et Écrits I, trang 819-837. Có thể xem bản tiếng Anh What is an author? trong Michel Foucault 2, Esthetics, Method, and Epistemology do James D. Faubion biên tập.
(5) La préparation, 277: Paradoxe: j’en suis parfois à préferer lire la vie de certains écrivains plutôt que leurs œuvres: par exemple, je connais mieux le Journal de Kafka que son œuvre, mieux les Carnets de Tolstoï que le reste de Tolstoï.
(6) La preparation, 277-278: Difficile à dire, parce que le texte très retors; mais précisément la raison modern est la complexité du réseau d’énonciation, c’est-à-dire des employs, des rôles du Je: complexité en étages: 1) Je est sincère. 2) Je est d’une sincérité artificielle. 3) La sincérité n’est pas pertinente, elle devient une qualité du texte à mettre entre guillemets – On peut dire autrement qu’avec le Journal de Gide, ce qui apparaît, c’est que l’auteur du Journal n’est pas un témoin (comme furent les Goncourt), mais un acteur d’écriture (ce qui trompe, c’est que cette écriture est classique, passéiste et “précieuse”)→ C’est sans doute le Journal qui donne le sens de l’ensemble-Gide: il fait précisément un ensemble creatif de Vie+Œuvre: l’œuvre n’est pas des plus grandes, la vie n’est rien d’héroïque (celle d’un rentier qui aimes les letters et a des amis “bien”); mais la vie se donne à lire comme toute entière dirigée vers la constitution de l’œuvre: et c’est cette tension, cette insistence, cette permanence qui est une réussite.
(7) La preparation, 278: C’est normal , puisque son problème , c’était de retrouver son Temps perdu à lui (et non le Temps en général) → Son œuvre: non une philosophie, mais un Salut, un “sauve qui peut” personnel: “Comment puis-je survivre à la mort de qui j’aime?” (Réponse: en écrivant la constraction du Temps, l’avant et l’après de la mort de la Mère). On a pu dire de La Recherche du temps perdu = “une histoire symbolique de la vie”, une biographie symbolique; pas de récit chronologique: ce n’est pas une bio-chronolographie → La distinction (ou la confusion) entre Marcel et le Narrateur n’est pas utile → La novation du rapport Vie/Œuvre, la position de la vie comme œuvre apparaissent peu à peu, avec le recul, comme un véritable déplacement historique des valeurs, des préjugés littéraires; c’est aujourd’hui, dans Proust, l’entensité, la force biographique qui séduisent et emportent (biographies, albums, iconographies; celle de la Pléiade est épuisée, introuvable)→ Déplacement du mythe proustien vers l’apothéose du sujet biographique → ce que j’ai appelé Marcellisme (différent du Proustisme).
((c̣n tiếp)
đào trung đąo
http://www.gio-o.com/daotrungdao.html
© gio-o.com 2014