đào trung đąo

3-Zero

± triết học ± lư thuyết văn chương ± phê b́nh văn chương

cùng một khác

 

(10)

 

Kỳ 1, Kỳ 2, Kỳ 3, Kỳ 4, Kỳ 5, Kỳ 6, Kỳ 7, Kỳ 8, Kỳ 9,

 

 

Có thể coi mỗi buổi thuyết giảng của Barthes ghi lại trong La Préparation du roman như những đoạn văn rời (fragments) có tính chất hữu hạn của ham muốn trong hiện tại nhưng viết/văn tự lại hướng về tương lai. Trong La Préparation du roman II/L’Œuvre comme volonté/Tác phẩm như ư chí  Barthes trở lại với quan niệm về cái tuyệt đối văn chương (Absolu littéraire – Barthes dă đọc trong quyển sách cùng tên của Philippe Lacoue-Labathe và Jean-Luc Nancy) của Chủ nghĩa Lăng mạn Đức Novalis đă tiên kiến về Tiểu thuyết tuyệt đối có tính chất đa tạp phản tư bao gồm các h́nh thức lư thuyết văn chương kể cả chính h́nh thức tiểu thuyết. Barthes xen kẽ giữa hai giáo tŕnh La Préparation du roman I/De la vie à l’œuvre La Préparation du roman II/L’Œuvre comme volonté cuộc hôi thảo về La Métaphore du Labytinthe/Ẩn dụ của Mê cung. Vấn đề Barthes nêu ra để hội thảo: Nhà toán học Pierre Rosenstiehl  thành viên của nhóm Oulipo đưa ra khái niệm “Tổ/Bọng Kiến/Fourmillière” có thể coi như ẩn dụ cho tất cả những ngành nghiên cứu người ta quan sát thấy  những chùm (réseaux), những hủy trung tâm quyền lực như trong triết học của Deleuze, Foucault, và có thể cả Derrida. Cho nên Barthes quan tâm chủ đề về mối tương quan giữa Ẩn dụ với diễn ngôn khoa học, nhất là với các khoa học nhân văn. Sau đó Barthes đi vào từ nguyên để giả nghĩa Mê cung và đưa ra câu hỏi để hội thào “Mê cung bắt đầu từ đâu?”

   Trong giáo tŕnh cái Trung tính/Le Neutre niên khóa 1977-1978 trước La Préparation du roman Barthes đặt bản văn đoạn rời như sự ham muốn đạt tới cái Trung tính như hệ h́nh ngôn ngữ là một thành phần của ư nghĩa văn hóa. Barthes định nghĩa cái Trung tính: “Tôi định nghĩa cái Trung tính như cái thượng phong, phá hủy, qua mặt cái hệ h́nh, hay đúng hơn tôi gọi Trung tính là tất cả cái ǵ phá hủy cái hệ h́nh. Bởi v́ tôi không định nghĩa một từ/chữ; mà tôi đặt tên cho một sự vật: tôi thâu tóm dưới một tên gọi, ở đây là cái Trung tính. Hệ h́nh, đó là cái ǵ? Đó là sự đối nghịch hai hạng từ/vế tiềm ẩn/ảo mà tôi hiện thực một hạng từ/vế, để nói, để đưa ra ư nghĩa.”(1) Cái Trung tính là luật chống lại hệ h́nh, là cái có hai mặt đối nghịch nhau nhưng tuyệt đối không phải là vế/hạng từ thứ ba của cặp đối nghịch ‘không là cái này/cũng không là cái kia/ni-nisme’ như quan niệm Barthes trước đây tŕnh bầy trong quyển Mythologies. Tại sao Barthes đi tới quan niệm về cái Trung tính? Trước hết, Barthes không phải là người đầu tiên nói tới cái Trung tính mà chính là Blanchot người mà Barthes vào cuối đời đă đọc lại và nhắc tới tên nhiều lần trong những giáo tŕnh ở Collège de France đă nêu ra khái niệm này gần mười năm trước. Sau nữa, Barthes t́m về cái Trung tính như một tiếng nói ẩn mật, tiếng nói của kẻ vừa chịu một cái tang in hằn nỗi đớn đau khôn nguôi (mẹ của Barthes mới chết trong khi Barthes soạn giáo tŕnh Le Neutre) hay một nụ cười mỉm không rơ nghĩa, một dấu vạch như Derrida quan niệm, ghi dấu vết trên thân xác, để trả lời cho hệ h́nh nhị giá của ư nghĩa bao trùm ngôn ngữ, phê b́nh. Trung tính gợi mở để triệt hủy, làm tan loăng hệ h́nh: đó là một kư ức không kư ức, một khu biệt không biệt phân, một hứa hẹn không hứa hẹn trong tương lai. Ngay trong buổi khai giảng giáo tŕnh này Barthes đă nói tới sự mệt mỏi (La Fatigue) và lại nhắc tới Blanchot trước đây đă nêu ra nghịch lư về con người, nhất là nhà văn, tuy mệt mỏi nhưng vẫn phải hoàn thành nhiệm vụ: “Dường như dù anh có mệt mỏi đi nữa, anh vẫn cứ phải hoàn thành nhiệm vụ của anh, đúng như việc phải làm. Người ta có thể nói rằng sự mệt mỏi không những chẳng làm trở ngại công việc mà công việc bó buộc điều đó,  dù cho có bị mỏi mệt cách mấy đi nữa.”(2) Mỏi mệt và u buồn đậm nét trong suốt giáo tŕnh La Préparation du roman nhưng Barthes vẫn nỗ lực làm trọn công việc giảng huấn như lời Blanchot.

   Sự ham muốn viết: Có thể đó chỉ là sự ham muốn duy nhất như trường hợp Kafka và sự ham muốn này có khía cạnh điên loạn bệnh hoạn. Nhưng sự ham muốn viết này với Kafka cũng là mục tiêu duy nhất của đời sống khốn nỗi mục tiêu này lại đối nghịch với cuộc đời, với hôn nhân. Do đâu lại có sự ham muốn này? Theo Barthes, không phải ở trong những quyển sách nhưng trong bản thảo của một người viết ta không quen biết gửi đến cho người biên tập của nhà xuất bản có kèm theo lá thư nồng nhiệt bày tỏ nỗi e ngại bản thảo bị đánh mất hay bị trả lại: đó là ḷng ham muốn thuần túy. Là người ham viết lách Barthes nhiều khi tự hỏi – dù biết hỏi vậy thật thơ ngây hay quỷ quái - tại sao người ta lại không viết, tại sao có quá nhiều người đọc trong khi không có mấy người viết? Phải chăng ta không thể hiểu được sự ham muốn của tha nhân? Khi sự ham muốn viết là nỗi lo âu mang nặng như trường hợp Flaubert th́ nỗi đam mê viết để cảm nhận được nỗi sướng khoái, Lạc thú (Jouissance) như chính nhà văn này đă tâm t́nh với bạn: “Đă lâu lắm rồi (cả năm nay) tôi đă không viết ǵ, và việc làm ra những câu văn đối với tôi dường như thật dịu dàng.” Với Proust, đó là sự dàn cảnh nỗi Ham muốn viết trong tiểu thuyết và Barthes khẳng định quyển À la Recherche du Temps perdu là câu chuyện của một kẻ muốn viết văn, và đó là quyển tiểu thuyết của việc Viết không ngừng nghỉ (roman du scripturire – Barthes lấy lại chữ La tinh này của Sidone Apolinaire (c. 431 – c. 490) – và Barthes cũng nêu nghi vấn phải chăng thảm kịch của Muốn-Viết lại thường xảy ra trong giai đoạn văn chương đang suy tàn: rất có thể “yếu tính” của sự vật chỉ hiện rơ khi những sự vật đi vào diệt vong? Ta thấy giọng điệu Barthes thật u buồn.

   Viết cũng có thể được coi như Khuynh năng (Tendance) nếu giải thích theo Freud. Viết thoạt đầu được đồng nhất với Sự Ham muốn một Đối tượng (viết cái này cái kia) nhưng đến một lúc nào đó có sự đứt quăng, khựng lại khi đối tượng trở thành thứ yếu và Khuynh năng mới là cái hàng đầu: Flaubert là chứng nhân của việc coi viết như nhu cầu tự nhiên khi cho rằng “Tôi viết chỉ để cho tôi, như tôi hút thuốc lá hoặc ngủ.” Trong trường hợp này nhà văn càng ngày càng bất chấp viết thể loại nào, sự khu biệt thể loại văn chương không c̣n là vấn đề đáng lưu tâm. Nhưng khi Tiểu thuyết bùng phát hay đang chuyển ḿnh biến đối điều này cũng làm nhà văn phân vân: Phân vân cực độ nhưng rồi Proust cũng đă bỏ dở việc viết khảo luận (quyển Saint Beuve) để quay sang viết tiểu thuyết.

_________________________

(1)     Roland Barthes, Le Neutre, nxb Seuil 2002, trang 31: Je définis le Neutre comme ce qui déjous le paradigme, ou plutôt j’appelle Neutre tout ce qui déjous le paradigme. Car je ne définis pas un mot; je nomme une chose: je rassemble sous un nom, qui est ici le Neutre.

Le paradigme, c’est quoi? C’est l’opposition de deux termes virtuels dont j’actualise l’un, pour parler, pour produire du sens.

(2)     Maurice Blanchot, Entretien infini, Gallimard 1969, #XVI. Il semble que, si fatigué que vous soyez, vous n’en accomplissiez pas moins votre tâche, exactement comme il faut. On dirait que non seulement la fatigué ne gêne pas le travail, mais que le travail exige cela, être fatigué sans mesure.

 

((c̣n tiếp)

 

đào trung đąo

 

http://www.gio-o.com/daotrungdao.html

 

 

© gio-o.com 2013