đào trung đąo
3-Zero
± triết học ± lư thuyết văn chương ± phê b́nh văn chương
≤ cùng một khác
(12)
Kỳ 1, Kỳ 2, Kỳ 3, Kỳ 4, Kỳ 5, Kỳ 6, Kỳ 7, Kỳ 8, Kỳ 9, Kỳ 10, Kỳ 11,
Trước khi đi vào chủ đề chính về viết tiểu thuyết, sau khi đă đào sâu vấn đề Viết như Ham muốn, như Đam mê, Barthes cho rằng cần đặt ra một nguyên tắc cho việc ngưng viết, tức là ngưng Ham muốn hay khả năng của một sự Chống lại-Viết hoặc Không-Viết (Contre-Écrire, Non-Écrire), một thứ Ngoại-tự/Para-graphie nghĩa là đổi hướng sự ham muốn về một thứ khác chứ không phải là viết, hoặc chế ngự, ḱm hăm Đam mê để đi vào Minh trí (Sagesse) một khi hiểu được rằng Viết không phải là khôn ngoan sáng suốt. Hai trường hợp có thể xảy ra: đổi hướng Ham muốn và đặt vấn đề về chính sự Ham muốn. Về sự kiện chấm dứt hẳn việc viết, Barthes nêu thí dụ cho Ham muốn “ch́m xuồng” (Sabordage) này: Arthur Rimbaud (1854-1891) chấm dứt làm thơ vào tuổi 20 để du lịch lang thang bụi đời, khám phá chinh phục thế giới như một tay phiêu lưu t́m thuộc địa (colon) và học nhiều thứ ngôn ngữ, và một thí dụ khác là Paul Verlaine toan nổ súng vào đầu ḿnh năm 1873. Barthes không đồng ư với cách giải thích dựa trên động cơ (motive) như Jean-Marie Carré (1926) trước đây viết về Rimbaud và được người đời ngưỡng mộ cũng như lối giải thích theo lược đồ tiến hóa (Định mệnh) dựa trên niềm tin Cơ đốc về một cứu cánh, phán đoán con người căn cứ trên cái chết của hắn. Theo Barthes, Rimbaud có thể được coi như cha đẻ của Hiện đại (Modernité) không phải dựa trên những bản viết, nhưng trên bản chất đáng kinh ngạc, sự điên rồ của việc dứt bỏ viết, chứ không hẳn trên tính chất triệt để, tinh khiết, tự do dứt bỏ: Rimbaud là một chủ thể của ngôn ngữ (être du langage) bị tách hai, phân chia như hai đường tàu chạy song song thẳng tắp, như thể nơi Rimbaud có hai sự “điều kiện hóa” lẫn nhau (conditionnements) là thi ca và du lịch, ngả này chặn lối ngả kia. Chính sự phân đôi này tác động như thử nghiệm hiện đại.(1)
Giải thích điều thường thấy nhà văn cho rằng “tôi đáng giá hơn là những ǵ tôi đă viết ra”(Je vaux plus que ce que j’écris) Barthes dùng khái niệm Siêu Ngă do Freud khởi xướng và được Lacan triển khai thành Lư tưởng của Ngă (Ichideal/Idéal du Moi) khác với Ngă lư tưởng (Idealich/Moi idéal) trong đó Lư tưởng của Ngă nằm ở phía Biểu tượng (Symbolique) c̣n Ngă lư tưởng lại nằm ở phía Tưởng tượng (L’Imaginaire). Hai Ngă này có một tương quan rất phong phú và tạo hậu quả tranh chấp hoài hủy làm cho chủ thể mất quân b́nh hoặc rơi vào trạng thái yêu đương say đắm (khi Ngă lư tưởng chiếm chỗ Lư tưởng của Ngă). Theo Barthes Viết hiển nhiên nằm ở phía Biểu tượng của Lư tưởng của Ngă. Tuy nhiên khi Ngă lư tưởng ít nhiều bị Lư tưởng của Ngă chế ngự khi đó sẽ xảy ra có độ chênh giữa giả thiết chiếm vị trí thượng phong của cả hai khiến chủ thể sẽ chạy về phía viết, bị cưỡng bách viết không ngưng nghỉ. Nhưng viết lại chẳng bao giờ hoàn toàn thỏa măn được Ngă lư tưởng. Hai trường hợp xảy ra: 1. Với nhà văn coi viết là một giá trị tuyệt đối: Tôi viết, trước hết đó là một vị thế tuyệt đối của giá trị: Theo nghĩa cổ điển, Tôi viết vậy tôi tuyệt đối đáng giá dù cho có chuyện ǵ xảy ra chăng nữa, và đó là niềm kiêu hănh của nhà văn, chẳng hạn Chateaubriand tuy vừa có sự nghiệp chính trị (là Đại sứ Pháp tại Anh) vừa có niềm kiêu hănh của nhà văn nhưng lại nghiêng về cái tôi nhà văn hơn, Kafka trong Nhật kư tuy khiêm tốn những vẫn thầm kiêu hănh về tài năng văn chương của ḿnh: Viết, như Lư tưởng của Ngă là hành vi Làm-nên-Giá trị (Faire-Valoir), nhiều khi nhà văn tuy có nghi ngờ về ḿnh nhưng chẳng thể dứt bỏ viết và điều này xô đẩy nhà văn lao vào diễn tŕnh biện chứng của viết/văn tự bất tận của “Tôi đáng giá hơn những ǵ tôi đă viết ra.”(2) 2. Ngă lư tưởng của Nhà văn khiến anh/chị ta ao ước làm nên một văn tự/viết toàn phần (écriture totale) trong tương lai nghĩa là một cơi viết ném lên khán trường chữ nghĩa toàn bộ Tưởng tượng của nhà văn như Kafka thố lộ trong Nhật kư ngày 8 tháng Chạp, 1911: “Hiện tôi vẫn đang có, và đă có từ trưa nay, cái nhu cầu lớn lao dứt bỏ nỗi khắc khoải của tôi bằng cách viết hết nó ra, và, viết nỗi khắc khoải đó xuống những tầng sâu thẳm của trang giấy như thể nó thoát ra từ đáy ḷng tôi, hoặc mô tả nó cách nào đó để tôi có thể thu hết thảy những ǵ tôi đă viết hoàn toàn vào những giới hạn của tôi. Đó không phải là một nhu cầu nghệ thuật.” Thật vậy, nhu cầu nghệ thuật nằm ở phía Lư tưởng của Ngă c̣n ở đây là phạm vi rộng lớn của Tưởng tượng của cái Ngă/Tôi lư tưởng. V́ tác phẩm không phải chỉ thuần túy là cứu cánh nghệ thuật nên Barthes cho rằng thay v́ nói “Tôi đáng giá hơn là nhưng ǵ tôi đă viết ra/ Je vaux mieux que ce que j’écris” đúng ra phải nói “Tôi đáng giá hơn rất nhiều những ǵ tôi đă viết ra/Je vaux plus que ce que j’écris.”
Coi La Préparation du roman như một Tác phẩm của T́nh yêu (Œuvre d’Amour) trong đó nói về t́nh yêu Thế giới Barthes rút ra những kết luận sau đây về Lư tưởng của Ngă và Ngă lư tưởng: 1. Ngă-Lư tưởng (Moi-Idéal) như thặng dư không biểu lộ của viết/văn tự đối diện với sự khô khan của văn tự sẽ đi về ngả cảm xúc, cảm tính, bao dung, “trái tim” nghĩa là về phía những thứ không khô khan→Mallarmé: văn tự “Là một thực hành rất xưa cũ và rất mơ hồ nhưng là một thực hành ghen tuông mà ư nghĩa của nó nằm trong sự ẩn mật của trái tim.” Theo Barthes, v́ sự cưỡng chế viết/văn tự của Lư tưởng của Ngă nên Ngă lư tưởng không ngừng triển khai cho nên văn chương luôn luôn tương quan với t́nh yêu. 2. Ngă lư tưởng là giá trị của con người nói chung chứ không phải chỉ của cá nhân nhà văn thế nên viết/văn tự phải tùy thuộc vào sự phát huy con người cụ thể, nghĩa là Văn tự chỉ là một phụ tùng. 3. Khi Ngă lư tưởng cảm thấy lớn lao hơn văn tự rất nhiều nhà văn sẽ muốn tự chứng thực bản thân bằng những ư hướng, phẩm chất của ḿnh, muốn là một tác giả của chính ḿnh (auteur de lui-même), tuy được người đời nh́n nhận nhưng cho rằng văn tự của ḿnh chứng tỏ tất cả những ǵ nơi ḿnh vượt lên trên văn tự, nghĩa là cái Ngă lư tưởng của tôi không đồng nhất với văn tự/viết của tôi. 4. Tuy nhiên nhà văn sẽ lại không thỏa măn nếu như không vươn tới sự nh́n nhận người khác: “Sáng tạo tha nhân, biết làm điều này, đó là vai tṛ của Tiểu thuyết.” (4) Barthes nhắc lại lời mong ước cũng và đó cũng là quyết định đă nêu ra từ đầu giáo tŕnh 1978-1979: đặt Tiểu thuyết như Dự án, tiểu thuyết không chỉ là một loại h́nh văn chương như đă được xác định rơ trong lịch sử, nhưng là mọi tác phẩm trong đó có sự vượt lên trên ḷng ích kỷ, tạo được đồng-cảm (sym-pathie) với tha nhân. Tiểu thuyết làm chứng nhân cho sự khốn khổ của tha nhân, cho sức mạnh của tha nhân như Kafka tâm sự trong Nhật kư. Để kết luận Barthes cho rằng “tiểu thuyết là một loại h́nh văn tự có khả năng vượt bỏ chính văn tự, mở toang tác phẩm cho sự biểu lộ toàn phần – dù cho có bị Ngă lư tưởng, Ngă tưởng tượng chế ngự; tiểu thuyết rơ rệt vốn là Dự-án, tác phẩm đi về phía trước, cho nên đầu đề của Giáo tŕnh là: Sự Chuẩn bị của Tiểu thuyết.” (5)
Nhưng nhà văn khi đă bắt tay vào viết sẽ không thể ngừng lại để chứng tỏ: Thứ nhất, “tôi” đáng giá hơn những ǵ đă viết, Lư tưởng của Ngă và Ngă lư tưởng thay nhau giữ vai tṛ lấn lướt trong chuyển vận Barthes đặt tên là “một vận chuyển cơ giới bất tận/une mécanique infinite” dựa trên những khái niệm phân tâm học và theo Sartre v́ bản viết của nhà văn được tŕnh ra trước mắt tha nhân kẻ định đoạt chủ quan tính của nhà văn một lần cho măi măi, đóng đinh nhà văn, phủ nhận tự do của nhà văn, đặt nhà văn vào vị trí cái Chết. Biết vậy cho nên nhà văn phản kháng lại cái nh́n của tha nhân này bằng cách viết tác phẩm kế tiếp. Chúng ta không quên thời viết Le degré zéro de l’écriture và Mythologies Barthes rất ngưỡng mộ Sartre nhưng từ thập niên 60s trở đi Barthes ít khi nhắc đến Sartre và Văn chương dấn thân. Và đây là lần cuối cùng Barthes nhắc đến Sartre. Có một điểm đặc biệt giống nhau giữa Sartre và Barthes: cả hai đều ngưỡng mộ Flaubert! Cuối đời Sartre đă viết quyển L’Idiot de la famille đồ sộ về Flaubert (và đây có lẽ là tác phẩm khảo luận giá trị nhất của Sartre) và Barthes cũng luôn luôn nhắc đến Flaubert khi bàn về tiểu thuyết. Có thể hiểu được lư do Sartre và Barthes nguỡng mộ Flaubert: cả hai trong ḷng vẫn c̣n mang nặng sự tiếc nuối – do ảo tưởng Mác-xít - giai cấp thợ thuyền vô sản Pháp đă bỏ lỡ cơ hội làm cuộc cách mạng sau khi phá ngục Bastille! Và chính Flaubert là nhà văn của thời điểm đó và văn chương Flaubert không ngả về phía giai cấp tư sản. Căn cứ vào phân tích về Lư tưởng của Ngă và Ngă lư tưởng của nhà văn Barthes phân loại (tạm thời) hai loại nhà văn: 1. Nhà văn của Ư chí của Tác phẩm (Volonté d’Œuvre) viết hoài hủy để thực hiện Ngă lư tưởng: Rousseau, Chateaubriand, Flaubert, Proust. 2. Nhà văn chấp nhận cái chết của Ngă lư tưởng, coi tác phẩm là cái Chết, là Đài Tưởng Niệm (Monument): Stéphane Mallarmé trả lời câu hỏi về cái Tôi/Ngă cá nhân của Camille Mauclair đă nói: “Người ta sẽ không nói ǵ hết về cái đó [cái Tôi Mallarmé] nữa, bởi chẳng có ǵ đáng để nhọc công. Tôi chỉ hiện hữu – và thật ít ỏi – trên trang giấy. Hơn nữa trang giấy màu trắng toát vẫn đáng quí hơn.”(6) Và theo Barthes, hiện thời loại nhà văn thuần chất này chính là Maurice Blanchot như trích dẫn: “Mỗi khi nhà văn được ưu ái hơn tác phẩm, th́ sự ưu tiên này, sự tán tụng thiên tài này có nghĩa một sự hạ cấp nghệ thuật, sự tháo lui trước chính sức mạnh của nghệ thuật, sự t́m kiếm những giấc mơ bù đắp.”(7) Trong suốt giáo tŕnh Barthes nhắc đến Blanchot trên ba mươi lần và đây là dịp Barthes tỏ rơ ḷng ngưỡng mộ Blanchot. Sau đó Barthes đưa ra phân loại các nhà văn dựa trên ‘cái Tôi’ của nhà văn: 1. Cái tôi đáng ghét (haïssable)→ Những nhà văn cổ điển; 2. Cái tôi đáng yêu (adorable)→Những nhà văn lăng mạn; 3. Cái Tôi xuống cấp (démodé)→Nhưng nhà văn Hiện đại; 4. Barthes tưởng tượng ra một loại nhà văn “cổ điển-hiện đại/Classique-moderne”→cái Tôi chênh vênh, không chắc thực.
Để kết thúc, Barthes nhắc lại rằng Giáo tŕnh-Quyển sách (Cours-Livre) hay [Giáo tŕnh]-Kịch trường ([Cours]-Théâtre này nhằm đặt cơ sở cho việc chuẩn bị viết Tác phẩm trong sự Ham muốn Viết. Và Barthes cũng báo trước khi bàn về phương pháp tŕnh bày giáo tŕnh sắp tới sẽ là Parabase.[Barthes đóng vai một kịch sĩ chính ra trước sân khấu giới thiệu với thính giả tác giả của vở kịch].
___________________________
(1) La Préparation, 213: Rimbaud est moderne (fondateur de Modernité) non par ses écrits – ou moins par ses écrits que par l’éblouissement, le jeté de sa rupture. Ce n’est même pas la radicalité, la pureté, la liberté de la rupture qui est moderne; c’est qu’elle laisse voir, donne à voir que le sujet – le sujet du langage – est fendu, schizé, comme une voie dont chaque rail file et suit tout droit devant lui, parallèlement à l’autre; comme si Rimbaud avait en lui deux “conditionnements” étanches: l’un à la poésie (par le lycée), l’autre au voyage (par le refus de la mère? Banal? Qui sait?); il a parlé deux languages discontinus: entre le poète, le voyageur, le colon et le croyant final (Paterne Berrichon, Claudel). [Berrichon là người biên tập Tác phẩm của Rimbaud và Claudel viết Tựa do nhà xuất bản Mercure de France in năm 1912]
(2) Sđd, 222: Pour écrivain, l’écriture est d’abord (d’abord et sans cesse) une position absolue de valeur: introjection de l’Autre sous les espèces d’un langage essentiel. Quelque soit le devenir de ce sentiment (et il n’est pas simple), l’écrivain possède, est constitué par une croyance narcissique première →J’écris, donc je vaux, absolument, quoi qu’il arrive. Classiquement, on appelait cette croyance: l’Orgueil; il y a un orgeuil de l’écrivain, et cet orgueil est un primitif.
(3) Sđd, 224: Mallarmé: “Une très ancienne et très vague pratique mais jalouse pratique, dont gît le sens au mystère du cœur.”
(4) Sđd, 226: Et la course recommence: Je ne puis être satisfait du témoignage que je me porte si je ne l’étends pas aux autres, car que puis-je valoir si je ne rends pas justice aux autres? Or créer l’Autre, savoir le faire, c’est le rôle du Roman.
(5) Sđd, 227: Le “Roman” apparaît donc – du moins m’apparaissait à l’origine du Cours – non comme une forme littéraire déterminée, mais comme une forme d’écriture capable de transcender l’écriture elle-même, d’agrandir l’œuvre jusqu’à l’expression totale – quoique dominé – du Moi idéal, du Moi imaginaire; il était bien Pro-jet, œuvre en avant, d’où le titre du Cours: La Préparation du Roman.
(6) Sđd, 228 Barthes trích lại Henri Mondor trong quyển Vie de Mallarmé: On ne dira rien, car rien ne vaudrait la peine. Je n’existe – et si peu – que sur le papier. Encore est-il blanc, préférablement.
(7) Sđd, 229: Chaque fois que l’artist est préféré à l’œuvre, cette préférence, cette exaltation du génie signifie une dégradation de l’art, le recul devant sa puissance propre, la recherche de rêves compensateurs.
((c̣n tiếp)
đào trung đąo
http://www.gio-o.com/daotrungdao.html
© gio-o.com 2013