đào trung đąo
3-Zero
±± triết học ±± lư thuyết văn chương ±± phê b́nh văn chương
≤≤ cùng một khác
(41)
Kỳ 1, Kỳ 2, Kỳ 3, Kỳ 4, Kỳ 5, Kỳ 6, Kỳ 7, Kỳ 8, Kỳ 9, Kỳ 10, Kỳ 11, Kỳ 12, Kỳ 13, Kỳ 14, Kỳ 15, Kỳ 16, Kỳ 17, Kỳ 18, Kỳ 19, Kỳ 20, Kỳ 21, Kỳ 22, Kỳ 23, Kỳ 24, Kỳ 25, Kỳ 26, Kỳ 27, Kỳ 28, Kỳ 29, Kỳ 30, Kỳ 31, Kỳ 32, Kỳ 33, Kỳ 34, Kỳ 35, Kỳ 36, Kỳ 37, Kỳ 38, Kỳ 39, Kỳ 40, Kỳ 41,
Trong phản bác Hegel về tự do và khủng bố Blanchot đưa Sade vào nhằm mục đích lật ngược biện chứng và chỉ ra tính chất quá độ của hủy tính từ đó văn chương khởi sự để dung tưởng ư nghĩa của hữu trong tính chất toàn thể hay thế giới trong ư nghĩa cũng như sự vắng mặt thế giới như một toàn thể. Văn chương của Sade chỉ ra tính chất hữu hạn, “tưởng tượng” của sự vượt bỏ (trancendance) do ngôn ngữ đưa nỗi ám ảnh của hủy tính vào ư nghĩa khi từ/chữ khi trở thành h́nh ảnh của thế giới và vào sự có mặt thực chất của từ/chữ. Theo Blanchot, hủy tính của ư nghĩa và từ/chữ khi trở thành h́nh ảnh thế giới luôn quyện lẫn vào nhau, không thể phân biệt tách rời. Thế nên tính chất hàm hỗn (ambiguité) của văn chương nằm chính ở mối thông giao giữa h́nh ảnh và tính chất ảnh tượng của từ/chữ. Từ/chữ trong thực tại và việc cho nghĩa của nó tạo nên giới hạn kép của thông giao.
Sau khi diễn giải thái độ thứ tư của nhà văn Blanchot triển khai mối tương quan giữa văn chương và ngôn ngữ văn chương dựa trên tiêu chí: nơi nhà văn chuyển vận từ không đến tất cả không ngưng nghỉ và hầu như không qua trung chuyển (dans l’écrivain ce mouvement allant sans arrêt et presque sans intermédiaire de rien à tout). Có thể nói đây là phần đóng góp tiên phong và đặc sắc của Blanchot trong việc minh giải ngôn ngữ văn chương – một kiến thức không thể thiếu của người viết văn làm thơ nhằm phác họa một lư thuyết văn học. Theo Blanchot ngôn ngữ vừa có tính chất tạo sự vững tin (rassurant) vừa gây ra bất ổn (inquiétant). Vững tin v́ khi chúng ta nói chúng ta dễ dàng làm chủ mọi sự vật và hài ḷng với sự dễ dàng này. Chẳng hạn khi chúng ta nói người phụ nữ này th́ lập tức chúng ta định vị cô/bà ta tức là chúng ta có thể đến gần hoặc rời xa cô/bà ấy, nghĩa là cô/bà ta là tất cả điều chúng ta muốn cô/bà ta như vậy, cô/bà ta trở thành nơi xảy ra những biến đổi và những hành động rất đáng ngạc nhiên: do đó có thể cho rằng lời nói là sự dễ dàng (facilité) và cũng là sự an toàn (securité) của đời sống. Nhưng nếu như ngôn ngữ thông thường tạo nên sự an toàn th́ ngược lại ngôn ngữ văn chương lại tạo ra sự bất ổn, lo lắng. Đi xâu vào thảo luận về ngôn ngữ trước hết Blanchot luận về đặt tên (nommer) sự vật sự việc nói riêng và việc sử dụng các từ/chữ (mots) nói chung. Từ xa xưa người bán khai cũng đă hiểu được rằng sở hữu những tên gọi sự vật sự việc đưa đến việc làm chủ sự vật sự việc. Nhưng người bán khai cũng lại đă biết rằng mối tương quan giữa những từ/chữ và thế giới vốn quá toàn phần, cận kề, cho nên việc vận dụng ngôn ngữ hóa ra lại cũng khó khăn và hiểm nguy chẳng kém việc tiếp cận với các sự vật sự việc chính v́ tên gọi (noms) không phải xuất phát từ sự vật sự việc mà là cái bên trong (le dedans) của chúng được đem ra ánh sáng một cách nguy hiểm và cái bên trong này luôn luôn vẫn c̣n là sự ẩn mật dấu kín chưa được đặt tên của chúng. Thế nhưng khi con người càng văn minh th́ con người càng ngày càng vận dụng ngôn ngữ một cách hồn nhiên và thản nhiên. Và việc này khiến chúng ta phải nêu ra câu hỏi: Phải chăng những từ/chữ đă hoàn toàn đánh mất mối tương liên của chúng với cái chúng chỉ tên? Nghĩa là mối tương quan giữa từ/chữ với sự vật sự việc đă trở thành một sự vắng mặt/khiếm diện (absence). Blanchot không cho rằng đây là một cái lỗi (défaut), một sự thiếu sót của ngôn ngữ, và dù cho đó có là một cái lỗi đi nữa th́ chính chỉ từ cái lỗi duy nhất này ngôn ngữ đă rút ra được giá trị của ḿnh. Biện minh cho lư luận này Blanchot dẫn thí dụ ngôn ngữ toán học là thứ ngôn ngữ hoàn hảo nhất, chính xác nhất trong các ngôn ngữ nhưng ngôn ngữ này lại không tương ứng với bất kỳ một hữu/sự vật sự việc nào. Theo Blanchot, đành rằng việc đặt tên cho sự vật tạo nên sự an tâm nhưng việc đặt tên này lại dựa trên sự kiện có trước sự an tâm: đó chính là sự bất an/ổn sâu thẳm hơn. Thế nên có thể nói đặt tên tức là triệt hủy chính những tính chất riêng biệt của cái được đặt tên.
Trái với ngôn ngữ thông thường cho ta sự an tâm khi sử dụng, ngôn ngữ văn chương lại gây nên sự lo lắng bất an. Blanchot viết: “Tôi nói: người phụ nữ đó. Hölderlin, Mallarmé và, một cách tổng quát, tất cả những người thi ca của họ lấy chủ đề là yếu tính của thi ca đều thấy trong hành vi gọi/đặt tên một sự tuyệt vời đáng lo ngại. Từ/chữ cung cấp cho tôi sự vật nó chỉ nghĩa, nhưng trước đó nó lại loại bỏ sự vật này. Để tôi có thể nói được: người phụ nữ này, th́ bằng cách này hay cách khác tôi phải rút bỏ thực tại bằng xuơng bằng thịt của cô/bà ta, làm cho cô/bà ta khiếm diện và hư vô hóa cô/bà ta. Từ/chữ cho tôi hữu, nhưng nó lại cho tôi cái hữu vô hữu. Từ/chữ là sự vắng mặt/khiếm diện, hư vô của hữu này, nó chỉ là cái c̣n lại của hữu khi nó mất hữu, có nghĩa đó là sự kiện duy nhất nó không hiện hữu. Đứng ở điểm nh́n này th́ nói quả là một cái quyền lạ lùng.”(1) Chúng ta không khó nhận ra ảnh hưởng của Levinas trong diễn giải về ngôn ngữ của Blanchot ở đây: đặt tên sự vật/sinh hữu (existants) có nghĩa triệt hủy những đặc tính riêng biệt của sinh hữu để đạt tới hiện sinh (existence) của sự vật. Tuy nhiên, Blanchot trở lại với quan niệm về ngôn ngữ của Hegel để lật ngược quan niệm biện chứng hủy thể và tương hữu.
Trở lại với Hegel thời trẻ - thời Hegel là hàng xóm và bạn thân của Hölderlin – Blanchot trích dẫn câu nói của Hegel trong tập biên khảo ‘Hệ thống giai đoạn 1803-1804’: “Hành vi đầu tiên, do hành vi này Adam biến ḿnh thành chúa tể của loài vật, chính là đặt cho chúng một cái tên, có nghĩa là Adam hư vô hóa chúng trong hiện sinh của chúng (như thể những vật hiện sinh).” Như vậy Hegel muốn chỉ ra việc đặt tên đă biến một hữu thực trở thành một ư tưởng. Blanchot diễn giải thêm: “Ư nghĩa của lời nói, hiểu như lời mở đầu cho mọi lời nói, buộc phải có cả một màn tàn sát vô vàn con vật để tế thần, một cơn đại hồng thủy xảy ra trước đó, nhấn ch́m hoàn toàn sự sáng tạo xuống một đại dương. Thượng đế đă sáng tạo ra những sinh vật, nhưng con người có bổn phận phải hủy diệt chúng. Chỉ từ đó những sinh vật mới có một ư nghĩa với con người, và con người đến lượt ḿnh lại sáng tạo chúng khởi từ cái chết trong đó chúng biến mất này; có điều, thay v́ những hữu thể và, như người đời thường nói, những vật hiện sinh, nay chỉ c̣n lại hữu, và con người bị kết án chỉ thể tiếp cận và sinh tồn bởi cái ư nghĩa hắn đă phải sinh sản ra. Hắn sống khép kín trong ban ngày, và hắn hiểu rằng cái ban ngày này không thể kết thúc, bởi chính sự kết thúc đă là ánh sáng, lư do chính v́ ư nghĩa của những hữu sinh đến từ sự kết thúc của chúng, ư nghĩa này là hữu.” (2) Như vậy sự vật chỉ đi vào môi trường ngôn ngữ như ư niệm phổ quát. Diễn tŕnh triệt hủy vuợt bỏ sự vật cho ngôn ngữ ư nghĩa, đó là chức năng của cái chết nơi con người. Blanchot giải thích rơ hơn: ngôn ngữ chỉ khả hữu trong cách thế triệt hủy do cái chết để đạt tới phổ quát tính và nền tảng hữu thể luận của ngôn ngữ, ngôn ngữ là tư tưởng về cái chết, cái chết như tư tưởng: “Dĩ nhiên, ngôn ngữ của tôi chẳng giết chết ai cả. Tuy nhiên, khi tôi nói “người phụ nữ này”, cái chết thực sự đă được tuyên bố và đă có mặt trong ngôn ngữ của tôi; ngôn ngữ của tôi muốn nói rằng cái con người-ở đây, kẻ đó, lúc này, có thể tự tách ra, vuột khỏi sự hiện hữu của ḿnh và sự có mặt của ḿnh và đột nhiên ch́m khuất trong một hư vô của hiện sinh và của hiện diện; ngôn ngữ của tôi thiết yếu có nghĩa là khả hữu tính của sự triệt hủy này; ngôn ngữ này là, ở mọi thời khắc, một chỉ hiệu dứt khoát về một biến cố như vậy. Ngôn ngữ của tôi không giết chết ai cả. Nhưng, nếu như người phụ nữ thực sự không thể chết đi, nếu như cô/bà ta ở từng thời khắc trong đời ḿnh lại không bị cái chết đe dọa, cô/bà ta không gắn liền và hợp nhất bằng một mối liên hệ của yếu tính với cái chết, th́ tôi chẳng thể hoàn tất được sự phủ nhận lư tưởng đó, sự ám toán được được đinh hoăn là ngôn ngữ của tôi.”(3)
Tuy điều dễ hiểu là để cho một từ/chữ có thể trở thành dấu hiệu sự chỉ nghĩa này phải vượt ra bên ngoài bối cảnh cụ thể trong đó sự vật thực xuất hiện. Nói cách khác, sự chỉ nghĩa (signification) giả thiết sự khiếm diện khả hữu của vất qui chiếu tới và cả sự khiếm diện của kẻ phát ngôn dù cho kẻ phát ngôn ngày nhận rằng đó là ngôn ngữ của ḿnh. Nhưng Blanchot c̣n muốn chỉ ra điều thiết yếu hơn: ngôn ngữ chỉ khả hữu khi hữu mang trong nó sự chết. Cái chết chính là lối mở vào ngôn ngữ, nhưng con người cũng lại tự trao thân cho ngôn ngữ. Con người khi nói tức là đă tiến hành khả năng đưa ḿnh tách rời bản thân, trở thành một hữu khác khởi từ cái chết: Tôi trở thành Hắn. Dấu vạch của cái chết tạo nên “h́nh ảnh” của sự vật được coi như xác chết. Ở trước ngôn ngữ không phải là đời sống mà là đời sống bị buộc chặt vào cái chết v́ đời sống dâng ḿnh cho ngôn ngữ qua h́nh ảnh của dấu chỉ đă thành xác chết. Blanchot viết: “Như vậy thật chính xác khi cho rằng, khi tôi nói: th́ cái chết lên tiếng nơi tôi. Lời nói của tôi là sự cảnh báo rằng cái chết là, chính trong thời khác này, được tháo củi sổ lồng trong thế giới, rằng giữa tôi kẻ cất tiếng và cái hữu tôi triệu thỉnh cái chết đột nhiên trồi lên: cái chết là ở giữa chúng ta như khoảng cách cáhc ly chúng ta, nhưng cái khoảng cách này cũng lại là cái ngăn cản chúng ta bị cách ly, chính bởi nơi nó là điều kiện của mọi am hiểu. Cái chết, duy nhất chỉ có nó, cho phép tôi nắm bắt cái tôi muốn đạt tới; trong các từ/chữ cái chết là khả tính duy nhất của ư nghĩa của chúng. Không có cái chết th́ mọi sự tan loăng vào sự phi lư và vào hư vô.” (4) Từ điều này có thể rút ra những hệ quả: Thứ nhất, khả năng nói gắn liền với sự khiếm diện của hữu, khi tôi nói tên tôi chẳng khác ǵ tôi tự đọc lời ai điệu; thứ nh́, nói không những là phủ nhận sự hiện hữu của cái nói về mà c̣n phủ nhận cả kẻ nói, kinh nghiệm hư vô của ngôn ngữ cho thấy “kinh ngiệm này đă làm rúng động trong những vùng xâu thẳm và rằng mọi thứ trong kinh nghiệm này vốn cố định và vững vàng đă rung chuyển” ([qu’elle ait] tremblé dans les profondeurs et que tout ce qui en elle était fixe et stable ait vacillé); thứ ba, ngôn ngữ chỉ thể khởi đầu trong khoảng trống không; và sau hết – cũng là hệ quả quan trọng nhất – “Ở điểm khởi đầu, tôi nói không v́ để nói một cái ǵ đó, nhưng chính đó là một cái không ǵ cả đ̣i hỏi được lên tiếng, cá không ǵ chẳng nói, cái không ǵ t́m thấy hữu của nó trong lời nói và hữu của lời không phải là cái không ǵ. Phát biểu này giải thích tại sao lư tưởng của văn chương có thể là điều này: không nói ǵ, nói chỉ là để không nói ǵ hết.”(5) Ngôn ngữ nhận biết phải vay mượn ư nghĩa không từ cái đang hiện hữu nhưng từ sự lui bước của cái đang hiện hữu trước sự hiện hữu của nó, chịu để quyến dụ bởi sự trụ lại trong khi rút lui bởi sự ham muốn đạt tới sự phủ nhận/triệt hủy (négation) trong tự thân và hoàn toàn làm cái không là ǵ thành mọi thứ.
_____________________________
(1) Maurice Blanchot, La part du feu trang 325: Je dis: cette femme. Hölderlin, Mallarmé et, en general, tous ceux dont la poésie a pour thème l’essence de la poésie ont vu dans l’acte nommer une merveille inquiétante. Le mot me donne ce qu’il signifie, mais d’abord il le supprime. Pour que je puisse dire: cette femme, il faut que d’une manière ou d’une autre je lui retire sa réalité d’os et de chair, la rendre absente et l’anéantise. Le mot me donne l’être, mais il me le donne privé d’être. Il est l’absence de cet être, son néant, ce qui demeure de lui lorsqu’il a perdu l’être, c’est-à-dire le seul fait qu’il n’est pas. De ce point de vue, parler est un droit étrange.
(2) Maurice Blanchot, La part du feu trang 326: Le sens de la parole exige donc, comme préface à toute parole, une sorte d’immense hécatombe, un déluge préalable, plongeant dans une mer complète toute la création. Dieu avait crée les êtres, mais l’homme dut les anéantir. C’est alors qu’ils prirent un sens pour lui, et il les créa à son tour à partir de cette mort où ils avaient disparu; seulement, au lieu des êtres et, comme on dit, des existants, il n’y eut plus que de l’être, et l’homme fut condamné à ne pouvoir rien approcher et rien vivre que par le sens qu’il lui fallait faire naître. Il se vit enfermé dans le jour, et il sut que ce jour ne pouvait pas finir, car la fin elle-même était lumière, puisque c’est de la fin des êtres qu’était venue leur signification qui est l’être.
(3) Maurice Blanchot, La part du feu trang 326: Sans doute, mon language ne tue personne. Cependant: quand je dis “cette femme”, la mort réelle est annoncée et déjà présente dans mon langage; mon langage veut dire que cette personne-ci, qui est là, maintenant, peut être détachée d’elle même, soustraite à son existence et à sa présence et plongée soudain dans un néant d’existence et de présence; mon langage signifie essentiellement la possibilité de cette destruction; il est, à tout moment, une allusion résolue à un tel évènement. Mon langage ne tue personne. Mais, si cette femme n’était pas réellement capable de mourir, si elle n’était pas à chaque moment de sa vie menacée de la mort, liée et unie à elle par un lien d’essence, je ne pourrais pas acccomplir cette négation idéale, cet assassinat diféré qu’est mon langage.
(4) Maurice Blanchot, La part du feu trang 326: Il est donc précis ément de dire, quand je parle: la mort parle en moi. Ma parole est l’avertissement que la mort est, en ce moment même, lachée dans le monde, qu’entre moi qui parle et l’être que j’interpelle elle a brusquement surgi: elle est entre nous comme la distance qui nous sépare, mais cette distance est aussi ce qui nous empêche d’être séparés, car elle est la condition de toute entende. Seule, la mort me permet de saisir ce que je veux atteindre; elle est dans les mots la seule possibilité de leur sens. Sans la mort, tout s’effondrerait dans l’absurde et dans le néant.
(5) Maurice Blanchot, La part du feu trang 327: Au point de départ, je ne parle pas pour dire quelque chose, mais c’est un rien qui demande à parler, rien ne parle, rien trouve son être dans la parole et l’être de la parole n’est rien. Cette formule explique porquoi l’idéale de la littérature a pu être celui-ci: ne rien dire, parler pour ne rien dire.
(c̣n tiếp)
đào trung đąo
http://www.gio-o.com/daotrungdao.html
© gio-o.com 2014