đào trung đąo
3-Zero
± triết học ± lư thuyết văn chương ± phê b́nh văn chương
≤ cùng một khác
(50)
Kỳ 1, Kỳ 2, Kỳ 3, Kỳ 4, Kỳ 5, Kỳ 6, Kỳ 7, Kỳ 8, Kỳ 9, Kỳ 10, Kỳ 11, Kỳ 12, Kỳ 13, Kỳ 14, Kỳ 15, Kỳ 16, Kỳ 17, Kỳ 18, Kỳ 19, Kỳ 20, Kỳ 21, Kỳ 22, Kỳ 23, Kỳ 24, Kỳ 25, Kỳ 26, Kỳ 27, Kỳ 28, Kỳ 29, Kỳ 30, Kỳ 31, Kỳ 32, Kỳ 33, Kỳ 34, Kỳ 35, Kỳ 36, Kỳ 37, Kỳ 38, Kỳ 39, Kỳ 40, Kỳ 41, Kỳ 42, Kỳ 43, Kỳ 44, Kỳ 45, Kỳ 46, Kỳ 47, Kỳ 48, Kỳ 49, Kỳ 50,
Khai triển chủ đề “viết” Blanchot đưa ra những ư kiến khá độc đáo về: không thể ngừng viết, nhân vật tiểu thuyết, giọng văn, sự xóa bỏ chủ thể nhà văn, sự hy sinh tiếng/lời nói của nhà văn trong văn chương cổ điển Pháp, việc thay thế “tôi” bằng “hắn” trong tiểu thuyết (như Kafka đă chỉ ra), tại sao nhà văn lại viết Nhật kư, sức quyến rũ của sự vắng mặt thời gian, và về h́nh ảnh trong ngôn ngữ văn chương. Những ư kiến này làm cơ sở không những cho văn sáng tác mà c̣n cho lư thuyết và phê b́nh văn chương của Blanchot.
Đă là nhà văn đích thực th́ không thể ngừng viết, coi viết như chấp nhận đánh mất khả năng nói “tôi” với chính ḿnh do đó cũng làm mất đi khả năng nói “tôi” của người khác trong bản văn để duy tŕ yếu tính của văn chương. Chính v́ vậy nhà văn không thể cho nhân vật tiểu thuyết đời sống khi sức mạnh sáng tạo của hắn bảo đảm cho sự tự do của họ. Blanchot cho rằng khái niệm nhân vật cũng như h́nh thức tiểu thuyết truyền thống chỉ là một trong những cách ḥa giải nhà văn sử dụng, khi văn chương đi t́m yếu tính của nó khi bị kéo ra khỏi bản ngă để cố gắng cứu văn những tương quan của hắn với đời sống, với thế giới và với chính hắn. Viết chính là gây tiếng vang cho cái không thể ngừng lên tiếng bằng cách buộc cái không ngừng lên tiếng phải im lặng, đặt quyền năng quyết định giữ im lặng, qua trung gian thầm lặng của chính nhà văn trên cái không ngừng cất tiếng, trên lời thầm th́ vang dội của ngôn ngữ khi mở ra trở thành h́nh ảnh, trở thành chiều sâu cất tiếng. “Sự im lặng này bắt nguồn trong sự xóa bỏ người viết được chào mời. Nói cách khác, niềm im lặng này cũng là phương sách của sự làm chủ của nhà văn, cái quyền can thiệp vào cánh tay không viết chữ vốn có, cái phần của chính hắn luôn luôn có thể nói không và, khi cần phải làm thế, cầu viện thời gian, khôi phục tương lai.”(1)
Về giọng văn đích thực trong một tác phẩm Blanchot cho rằng đó không phải là bút pháp, cũng không phải là sự quan tâm đến ngôn ngữ của nhà văn hay tính chất của ngôn ngữ, nhưng chính là sự im lặng như một cường lực được duy tŕ của nhà văn, khi đă xóa bỏ được cái tôi, đă từ chối bản ngă, sức mạnh này giữ vững được bản thân trong sự xóa bỏ quyền hành của của sức mạnh, của quyết định im tiếng để cho sự im lặng này có được cái h́nh thức, sự gắn bó và thấu hiểu cái ǵ cất tiếng không có khởi đầu cũng chẳng có kết thúc.
Khi được mời gọi xóa bỏ ngă “nhà văn lớn” vẫn tự kiềm chế để lời lẽ trong bản viết không phải là lời của ḿnh, nhưng cũng không phải là sự trôi tuột thuần túy lời của bất kỳ ai. Tuy cái tôi bị xóa bỏ nhưng nhà văn vẫn âm thầm giữ được uy quyền cho nên nhà văn vẫn tự bảo toàn trong tác phẩm. Và v́ vậy tác phẩm cũng vẫn giữ được một nội dung. Những nhà văn Pháp cổ điển hy sinh lời nói của ḿnh cho tiếng nói phổ cập cất tiếng. Bằng h́nh thức có quy luật, chắc chắn kiềm chế được lời lẽ tự do phóng túng để có được tương quan giữa tính chất phổ cập vô ngă với sự thật. Sự thật này nằm ngoài cá nhân và nhắm đến việc vượt ra ngoài thời gian. Chính v́ vậy văn chương có được hào quang của lư trí. Nhưng v́ viết là khám phá ra sự kiện không thể ngừng viết nên nhà văn không bước về phía sự phổ cập, không đi về hướng một thế giới chắc thực hơn, đẹp đẽ hơn, được biện minh là chính đáng hơn, cũng không t́m ra lời lẽ tốt đẹp để nhân danh lên tiếng cho mọi người v́ điều cất tiếng trong nhà văn bằng cách này hay cách khác không phải là tiếng nói của nhà văn và cũng không phải tiếng nói của bất kỳ ai. “Cái ‘hắn ta’ thay thế cho cái ‘tôi’ và đó chính là niềm cô đơn từ tác phẩm đến với nhà văn. “Hắn ta” không chỉ định sự vô tư khách quan, sự tách rời sáng tạo. “Hắn ta” không tuyên dương ư thức nơi một người khác không phải là tôi, sức bật của một đời sống con người, sức bật này trong không gian tưởng tượng của tác phẩm nghệ thuật, sẽ giữ được sự tự do để nói “tôi”. “Hắn ta” chính là tôi đă trở thành không là ai cả, tha nhân/ai đó đă trở thành người khác, điều này nghĩa là, ở địa vị ḿnh tôi không thể nào nói với tôi và rằng kẻ nói với tôi sẽ không xưng “tôi”, sẽ không là chính hắn.”(2)
Những nhà văn lớn thường viết Nhật kư như một nhu cầu để giữ được mối tương quan với bản thân và Blanchot cho rằng đó là một điều đáng chú ư. Nhà văn viết nhật kư v́ cảm thấy một sự miễn cưỡng cao độ trong việc xóa bỏ chính ḿnh cho ân huệ của sức mạnh trung tính (puissance neutre) không có h́nh dạng và không có số phần nằm đằng sau tất cả những ǵ ḿnh đă viết. Sự miễn cưỡng và e ngại này tỏ lộ nỗi lo âu đặc biệt của những tác gia tên tuổi trong việc viết Nhật kư. Nhật kư của nhà văn khác hẳn với thứ nhật kư lăng mạn thường t́nh. Theo Blanchot, nhật kư của nhà văn không thiết yếu là tự bạch hay kể truyện đời ḿnh nhưng là một thứ Đài Tưởng Niệm (Mémorial). Nhà văn phải tưởng nhớ ǵ? Chính là tưởng nhớ con người thực của ḿnh trong cuộc sống đời thường hàng ngày khi không viết văn. “Nhưng điều lạ lùng là phương tiện nhà văn sử dụng để hồi ức bản thân này lại chính là một yếu tố của sự lăng quên: hành vi viết. Song chính v́ vậy mà sự thật không nằm trong những nhận xét thú vị, văn vẻ t́m thấy trong Nhật kư nhưng lại trong những chi tiết vô nghĩa gắn liền với thực tại hàng ngày. Quyển Nhật kư bày ra hàng loạt những điểm ghi dấu nhà văn thiết lập để nhận ra bản thân khi cảm nhận được sự hóa thân nguy hiểm ḿnh đối diện. Đó là một ngả [viết Nhật kư] hăy c̣n khà dĩ để thoát hiểm, một thứ đường giao thông trên tường thành chạy dọc theo, để kiểm soát và đôi khi nhập vào đường khác, là ngả nơi việc đi ḷng ṿng là một nhiệm vụ không chấm dứt. Ở chỗ này th́ những sự việc có thật vẫn được nói tới. Ở đấy kẻ nói ra vẫn giữ tên ḿnh và nói nhân danh ḿnh, và ngày tháng ghi lại là ngày tháng thông thường trong đó cái ǵ xảy ra là thực sự xảy ra. Nhật kư – quyển sách này vẻ ngoài hoàn toàn dường như cô đơn – lại thường được viết ra trong sợ hăi và âu lo về nỗi cô đơn đến với nhà văn từ tác phẩm.” (3) Nhà văn viết nhật kư cho thấy nhà văn không muốn cắt đứt với niềm hạnh phúc, với sự chừng mực của ngày tháng thực sự ḿnh sống. Nhật kư bắt rễ từ chuyển vận viết trong thời gian, trong sự tàm thường của cái hàng ngày được ghi ngày tháng và sự tầm thường này được bảo lưu bởi ngày ghi. Rất có thể rằng điều được ghi lại là do sự thành thực, chẳng ngại ngùng khi nói ra sự thật, nhưng việc nói ra này được sự cố, cái diễn ra che chở v́ nó đă qua, nó hướng tới ngày mai. Viết Nhật kư cũng cho thấy kẻ viết không c̣n có thể thuộc về thời gian qua hành động đă là hành động được khép lại, qua cộng đồng nghề nghiệp, qua sự đơn giản của lời lẽ riêng tư, qua sức mạnh của sự không cần suy nghĩ đắn đo. Dù rằng người viết đă không c̣n thuộc về lịch sử nhưng hắn cũng lại không muốn mất đi thời gian tính, và viết nhật kư là do nhu cầu lịch sử đời người xảy ra hàng ngày nhịp nhàng với việc lo toan hàng ngày, và hắn cũng không biết làm ǵ ngoài việc viết văn. “Thế nên những nhà văn giữ nhật kư thường là những người viết văn chương nhất trong những nhà văn, nhưng cũng có thể chính v́ làm vậy họ tránh được sự quá đà của văn chương, nếu như quả thực văn chương đúng là phạm vi trong đó sự vắng mặt của thời gian ngự trị đầy quyến rũ.” (4) Trong Faux pas Blanchot cho rằng Nhật kư của Kierkegaard là tấm gương của toàn thể tác phẩm của Kierkegaard.(5) Blanchot nhận định về Nhật kư của Kafka: “Kafka đă không chỉ muốn là một nhà văn không thôi, quyển Nhật kư riêng tư cho chúng ta thấy điều đó, nhưng quyển Nhật kư sau hết lại cho chúng ta thấy Kafka c̣n hơn là một nhà văn; ông ta nhường bước của kẻ đă viết văn cho kẻ đă sống trải: chính kẻ này từ nay chúng ta t́m kiếm trong tác phẩm của ông ta.(6) Những trích dẫn trên cho thấy Blanchot cho rằng Nhật kư của các nhà văn lớn có tầm quan trọng đặc biệt trong việc đọc tác phẩm của họ.
Viết, theo Blanchot, là trao thân ḿnh cho sự vắng mặt thời gian. Nhận định như vậy cũng có nghĩa tiếp cận yếu tính của cô đơn. Vắng mặt thời gian không thuần túy tiêu cực. Vắng mặt thời gian có nghĩa là khoảng thời gian không có ǵ khởi đầu, không thể bắt đầu. Không tiêu cực bởi v́ đó là thời gian không có sự phủ nhận, cũng không có quyết định, khi mà ở đây cũng là không ở đâu cả, khi mà mỗi sự vật rút lui vào h́nh ảnh của nó và cái “tôi” nhà văn ch́m nghỉm trong trung tính (neutralité) của cái “hắn ta” không diện mạo. “Thời gian của sự vắng mặt thời gian là không hiện tại, không có sự hiện diện. Cái “không hiện tại” này lại không qui chiếu về một cái đă qua. Kư ức trước đây có phẩm giá và hoạt lực của cái lúc này; kư ức cũng c̣n làm chứng cho hoạt lực này, giải thoát tôi ra khỏi điều nếu không sẽ gợi tôi nhớ lại, giải phóng tôi khỏi điều đó bằng cách cung cấp cho tôi phương tiện để tự do hồi ức nó, sắp đặt nó theo ư tôi lúc này. Kư ức là sự tự do của quá khứ. Thế nhưng cái ǵ không có hiện tại cũng lại không chấp nhận cái hiện tại của một kư ức. Kư ức nói về biến sự: cái/điều này trước đây đă là thế, và lúc này măi măi không như thế nữa. Tính chất không thể cứu văn của cái không có hiện tại, của cái không c̣n ở đây nữa như đă là thế nói lên điều này: cái đó chẳng bao giờ xảy ra cả, chẳng một lần đầu nào xảy ra, thế nhưng nó lại tái khởi diễn, vẫn lại, vẫn lại, một cách bất tận. Cứ thế không có kết thúc, không có khởi đầu. Cứ thế không có tương lai.”(7) Blanchot khẳng định thời gian của vắng mặt thời gian không có tính chất biện chứng v́ trong thời gian này cái hiện ra chính là sự kiện không có ǵ hiện ra, là hữu trong đáy sâu của vắng mặt hữu, hiện hữu khi không có ǵ hết, đă không c̣n là ǵ nữa khi có một cái ǵ đó hiện hữu, như thể (những) hữu đă chỉ hiện hữu bởi sự mất hữu, khi không có hữu. Đảo nghịch tiến tŕnh này luôn luôn ném chúng ta trở lại sự có mặt/hiện diện như không có mặt/khiếm diện, khiếm diện tự khẳng định trong đó chẳng có ǵ được khẳng định cả nhưng cái không không c̣n được khẳng định trong một chuyển vận không biện chứng. Trong thời gian vắng mặt thời gian cái mới không làm mới bất kỳ cái ǵ, cái hiện diện (présent) không là đồng thời (ce qui est present est inactuel). tôi không biết được nhưng alị nhận ra cái không không hiện thời v́ nó cứ trở lại, v́ chính sự nhận ra này phá hủy khả năng hiểu biết của tôi, cái quyền nắm bắt sự vật sự việc của tôi nhưng tôi lại vẫn cứ không ngừng nhắm tới cái không thể tiếp cận, không thể nắm bắt.
Không là biện chứng thời gian vắng mặt thời gian cũng không là vĩnh cửu bởi cái ở đây, lúc này, không ch́m khuất trong không ở nơi nào (nulle part), tuy vậy không ở nơi nào lại ở đây, và cái thời gian chết lại là một thời gian có thực, không ngừng xảy đến, và khi xảy đến nó làm cho thời gian bị hao ṃn, khô cứng. “Hiện tại chết là tính bất khả hiện thực một hiện tại/diện, sự bất khả hữu này có mặt, nó ở đó như cái nhân đôi mọi hiện tại, là cái bóng của hiện tại/diện, rằng hiện tại/diện này mang trên vai và dấu mặt trong nó. Khi tôi một ḿnh/cô đơn, tôi không một ḿnh/cô đơn, nhưng, trong hiện tại, tôi đă trở lại với tôi dưới dạng một Kẻ Nào Đó. Kẻ Nào Đó ở đó, nơi tôi một ḿnh. Sự kiện hiện hữu một ḿnh/cô đơn, chính bởi tôi thuộc về cái thời gian chết không phải là thời gian của tôi đó, cũng chẳng là thời gian của bạn, chẳng là thời gian của mọi người, nhưng là thời gian của Kẻ Nào Đó. Kẻ Nào Đó là kẻ vẫn hiện diện, trong khi chẳng có ai cả. Ở chỗ tôi một ḿnh, tôi không ở đó, ở đó chẳng có ai hết, nhưng cái vô ngă lại ở đó: cơi ngoài như cái đến trước, có trước, làm tan loăng mọi khả tính của tương quan cá thể. Kẻ Nào Đó là cái Hắn không mặt mày, cái Người Ta người ta là thành phần, nhưng ai là kẻ dự phần? Không phải ai đó hay kẻ nào, chẳng bao giờ là bạn hay tôi. Chẳng có ai dự phần vào Người Ta cả. “Người Ta” thuộc về một phạm vi ta không thể đưa ra ánh sáng, chẳng phải v́ nó dấu kín một điều ǵ bí ẩn lạ lẫm với mọi sự phơi mở, cũng chẳng phải v́ nó tối tăm một cách triệt để, nhưng bởi v́ nó biến đổi mọi thứ dẫn tới/tiếp cận nó, kể cả ánh sáng, thành hữu vô danh, vô ngă, cái Không-đúng-thực, Không-có-thực và tuy nhiên lại vẫn cứ ở đó. Cái “Người Ta”, nh́n dưới viễn tượng này, cái hiện ra thật gần, khi người ta chết.”(8) Chính v́ những điều nói trên nên ở cơi cô đơn tôi cảm thấy ngày tháng không là ǵ cả mà chỉ là sự mất đi nơi lưu trú, đó là một sự thân thiết với cái cơi ngoài không nơi chốn và không nơi ngưng nghỉ. Hành vi đến nơi đấy khiến tôi thuộc về sự tan loăng, thuộc về kẽ nứt ở đó ngoại giới là sự xâm nhập ngộp thở, là sự trần trụi, sự lạnh lẽo tôi phơi ḿnh khám phá, là nơi không gian là sự chóng mặt của chiều kích không gian mở ra (le vertige de l’espacement). Và ở đó sự quyến rũ ngự trị. Trong diễn giải về “Cơi Người Ta” này ta thấy Blanchot đă đọc diễn giải của Heidegger trong Sein und Zeit/Hữu và Thời (SZ, §27). Khi đưa ra diễn giải thông diễn luận về Dasein/Tại thể Heidegger không xét Dasein trong viễn tượng của chủ thể nhưng trong viễn tượng “Sống-với”, “Hiện hữu trong thế giới” và coi “Người Ta” là hữu ở ngôi thứ ba và khi Dasein sống với người khác, sốngtrong thế giới nỗi âu lo xuyên suốt Dasein một cách ẩn khuất, lo sao cho có thể duy tŕ sự khác biệt hay khoảng cách giữa tôi và tha nhân. Heidegger nhấn mạnh đến khái niệm Abständigkeit/Tinh chất khoảng cách và coi đó là nền tảng của cấu trúc hiện sinh của Dasein. Abständigkeit được coi như sự hiện diện của một quyền lực trung tính của kẻ khác ngự trị diều khiển tôi bất cần đó là tốt hay xấu cho tôi. Sự hiện diện của quyền lực trung tính, vô danh, không thể nắm bắt này tạo thành sự “độc tài của Người Ta”. Trong phần Phụ chú (Annexes) cho quyển L’Espace littéraire (trang 337-340) ở bài ‘La solitude essentielle et la solitude dans le monde/Cô đơn thiết yếu và cô đơn ở đời’ Blanchot tuy có nhắc tới Heidegger nhưng mục đích là để chỉ ra sự khác biệt giữa ‘cô đơn thiết yếu’ với ‘cô đơn ở đời/trong thế giới’: “Khi tôi một ḿnh, đó không phải là tôi đang ở đó, và cũng không phải là tôi ở cách xa bạn, cũng chẳng phải là cách xa những người khác, cách xa thế giới. Tôi không phải là chủ thể ấn tượng về cô đơn này tới, cái t́nh cảm về những giới hạn của tôi, nỗi buồn chán chỉ có tôi với tôi.”(9)
________________________________
(1) Sđd, 22: Ce silence a sa source dans l’effacement auquel celui qui écrit est invité. Ou bien, il est la resource de sa maîtrise, ce droit d’intervenir que garde la main qui n’écrit pas, la part de lui-même qui peut toujours dire non et, quand il le faut, en appelle au temps, restaure l’avenir.
(2) Sđd, 23: Le “Il” qui se substitute au “Je”, telle est la solitude qui arrive à l’écrivain de par l’œuvre. “Il” ne désigne pas le désintéressement objectif, le détachement créateur. “Il” ne glorifie pas la conscience en un autre que moi, l’essor d’une vie humaine qui, dans l’espace imaginaire de l’œuvre d’art, garderait la liberté de dire “Je”. “Il”, c’est moi-même devenu personne, autrui devenu autre, c’est que, là où je suis, je ne puisse plus m’addresser à moi et que celui qui s’addresse à moi, ne dise pas “Je”, ne soit pas lui-même.
Blanchot trở lại chủ đề đi từ “tôi/Je” sang “hắn/Il” trong Entretien infini (La Voix narrative, EI từ trang 556-567) cho rằng “hắn” trong tự sự là tiếng nói của cái Trung tính: “Điều Kafka chỉ bảo chúng ta – dù rằng câu này không thể trực tiếp gán cho ông ta – rằng kể truyện là đưa cái trung tính vào cuộc chơi. Cái trung tính điều khiển việc kể truyện đứng dưới canh gác của “hắn”, ngôi thứ ba lại không phải là nhân vật ngôi thứ ba, cũng chẳng phải là cái che phủ đon giản của tính chất không có chủ nhân. Chữ “hắn” của việc kể truyện nơi cái trung tiếng nói không hài ḷng chiếm chỗ của chủ thể nói chung, rằng chủ thể này có là một cái “tôi” được nói rơ hay ngầm hiểu hay đó là một biến sự như thể biến sự này có một nơi chốn trong ư nghĩa vô chủ của nó/ Ce que Kafka nous apprend – même si cette formule ne saurait lui être directemet attribuée -, c’est que raconteur met en jeu le neutre. La narration que régit le neutre se tient sous la garde du “il”, troisième personne qui n’est pas une troisième personne, ni non plus le simple couvert de l’impersonnalité. Le “il” de la narration où parle le neutre ne se contente pas de prendre la place qu’occupe en general le sujet, que celui-ci soit un “je” déclaré ou implicite ou qu’il soit l’événement tel qu’il a lieu dans sa signification impersonnelle.
(3) Sđd, 24: Mais le moyen dont il se sert pour se rappeler à soi, c’est, fait étrange, l’élément meme de l’oubli: écrire. De là cependant que la vérité du Journal ne soit pas dans les remarques intéressantes, littéraire, qui s’y trouvent, mais dans les details insignifiants qui le rattachent à la réalité quotidienne. Le Journal représente la suite des point de repère qu’un écrivain établit pour se reconnaître, quand il present la metamorphose dangeureuse à laquelle il est exposé. C’est un chemin encore viable, une sorte de chemin de ronde qui longe, surveille et parfois double l’autre voie, celle où errer est la tâche sans fin. Ici, il est encore parlé de choses veritable. Ici, qui parle garde son nom et parle en son nom, et la date qu’on inscrit est celle d’un temps commun o ù ce qui arrive vraiment. Le Journal – ce livre apparemment tout à fait solitaire – est souvent écrit par peur et angoisse de la solitude qui arrive à l’écrivain de par l’œuvre.
(4) Sđd, 25: Il arrive que les écrivains qui tiennent journal soient les plus littéraires de tous les écrivains, mais peut-être précisément parce qu’ils évitent ainsi l’extrême de la literature, si celle-ci est bien le règne fascinant de l’absence du temps.
(5) Maurice Blanchot, Le Journal de Kierkegaard trong Faux pas, Gallimard 1943 trang 25-30: …le Journal , par cette variété essentielle, est le miroir de toute l’œuvre de Kierkegaard et meme son symbole, s’il est vrai que ce qui est au fond de la méditation qu’il a poursuivie, c’est la recherché d’un idée qui fût en même temps existence, d’une idée qui, vérité pour lui, donnât un sens à tout ce qu’il était et faisait.
(6) Maurice Blanchot, La lecture de Kafka trong La part du feu, trang 9: Kafka n’a voulu être qu’un écrivain, le Journal intime nous le montre, mais le Journal achève de nous faire voir en Kafka plus qu’un écrivain; il donne le pas à celui qui a vécu sur celui qui a écrit: c’est lui désormais que nous cherchons dans son œuve.
(7) Sđd, 26: Le temps de l’absence de temps est sans present, sans présence. Ce “sans présent” ne renvoie cependant pas à un passé. Autrefois a eu la dignité, la force agissante de maintenant; de cette force agissante, le souvenir témoigne encore, lui qui me libère de ce qui autrement me rappellerait, m’en libère en me donnant le moyen de l’appeler libremant, d’en disposer selon mon intention présente. Le souvenir est la liberbé du passé. Mais ce qui est sans present n’accepte pas non plus le présent d’un souvenir. Le souvenir dit de l’événement: cela a été une fois, et maintenant jamais plus. De ce qui est sans present, de ce qui n’est même pas là comme ayant été, le caractère irremediable dit: cela n’a jamis eu lieu, jamais une première fois, et pourtant cela recommence, à nouveau , à nouveau, infiniment. C’est sans fin, sans commencement. C’est sans avenir.
(8) Sđd, 27-28: Le présent mort est l’impossibilité de réaliser une presence, impossibilité qui est présente, qui est là comme ce qui double tout present, l’ombre du présent, que celui-ci porte et dissimule en lui. Quand je suis seul, je ne suis pas seul, mais, dans ce présent, je reviens déjà à moi sous la forme de Quelqu’un. Quelqu’un est là, où je suis seul. Le fait d’être seul, c’est que j’appartiens à ce temps mort qui n’est pas mon temps, ni le tien, ni le temps commun, mais le temps de Quelqu’un. Quelqu’un est ce qui encore présent, quand il n’y a personne. Là où je suis seul, je ne suis pas là, il n’y a personne, mais l’impersonnel est là: le dehors comme ce qui prévient, précède, dissout toute possibilité de rapport personnel. Quelqu’un est le Il sans figure, le On dont on fait partie, mais qui en fait partie? Jamais tel ou tel, jamais toi et moi. Personne ne fait partie du On. “On” apprtient à une region qu’on ne peut ammener à la lumière, non parce qu’elle cacherait un secret étranger à toute révélation, ni même parce qu’elle serait radicalement obscure, mais parce qu’elle transforme tout ce qui a accès à elle, même la lumière, en l’être anonyme, immpersonnel, le Non-vrai, le Non-réel et cependant toujours là. Le “On” est, sous cette perspective, ce qui apparaît au plus près, quand on meurt.
(9) Sđd, trang 337: Quand je suis seul, ce n’est pas moi qui suis là et ce n’est pas de toi que je reste loin, ni des autres, ni du monde. Je ne suis pas le sujet à qui arriverait cette impression de solitude, ce sentiment de mes limites, cet ennui d’être moi-même. Qund je suis seul, je ne suis pas là.
(c̣n tiếp)
đào trung đąo
http://www.gio-o.com/daotrungdao.html
© gio-o.com 2014