đào trung đąo

3-Zero

± triết học ± lư thuyết văn chương ± phê b́nh văn chương

cùng một khác

(21)

 

Kỳ 1, Kỳ 2, Kỳ 3, Kỳ 4, Kỳ 5, Kỳ 6, Kỳ 7, Kỳ 8, Kỳ 9, Kỳ 10, Kỳ 11, Kỳ 12, Kỳ 13, Kỳ 14, Kỳ 15, Kỳ 16, Kỳ 17, Kỳ 18, Kỳ 19, Kỳ 20, Kỳ 21,

 

Barthes mô tả khá cặn kẽ những chi tiết đời sống của một người viết – để viết một tác phẩm mới – căn cứ trên tiểu sử những nhà văn nổi tiếng: cáo bệnh để bảo vệ thời giờ dành cho việc viết như đă nói ở trên, biện bạch cho sự ích kỷ (Casuistique de l’égoisme) của ḿnh bằng cách thần thánh hóa tác phẩm sẽ viết cũng như thần thánh hóa bản thân (se sacraliser) tự cho ḿnh một vai tṛ cao cả để có sức mạnh giúp ḿnh làm được điều ḿnh muốn là viết tác phẩm, làm cho hành vi viết trở thành trang trọng (solenniser l’acte d’écrire). Barthes đặt câu hỏi: “Tại sao lại tự thần thánh hóa?” và đưa ra câu trả lời: “Bởi điều này tạo sức mạnh cho một sự ích kỷ nào đó, không có sự ích kỷ này Tác phẩm không thể thực hiện → một thứ tự-vận dụng= thay thế cho ḷng nhân (hay, nếu như chữ này làm bạn khó chịu, ḷng bao dung) (sẵn sàng có th́ giờ cho mọi người) bằng một quyền hạn khác, quyền hạn này chính nó cũng tham dự vào một tính chất tôn giáo nào đó, nghĩa là vào một mối quan hệ cơ bản với thiên/tự nhiên, với thế giới → mối quan hệ này là Văn tự → tôi dùng chữ “ích kỷ”, bởi chữ này cho phép chúng ta đi vào một loạt những vấn đề thực tiễn (có liên hệ với thực hành viết), quấn chặt quanh cái ngă→ Kẻ nào muốn viết thật ra phải tổ chức cái ngă viết văn của ḿnh (scribens) theo một toàn thể có hệ thống những tính toán, hay nói một cách tổng quát, của những nét đặc biệt của đời sống: đó là cái Nietszche gọi một cách đáng ngạc nhiên là “sự biện bạch của ích kỷ”→ trong quyển Ecce Homo, tác phẩm cuối cùng,  Nietszche tŕnh bày không dấu diếm, với giọng cường điệu, đầy đam mê và nhiệt t́nh, chẳng tính toán thiệt hơn, chi tiết về những ưa thích, những thói quen, những qui củ (régimes hiểu theo nghĩa tổng quát là cách tổ chức những nhu cầu hàng ngày) của ḿnh: “Người ta sẽ hỏi tôi một cách chính đáng tại sao tôi lại kể ra  tất tật những thứ chẳng đảng kể ra và, theo ư kiến thông thường, là chẳng có ư nghĩa ǵ…” Trả lời: “những thứ vụn vặt như thực phẩm, chỗ ở, khí hậu, giải trí, tất cả sự biện bạch của ích kỷ đó – quan trọng hơn hết thảy tất cá những thứ cho đến bây giờ người ta coi là quan trọng. “Chính bằng cái đó một sự cải huấn phải bắt đầu” (Biện bạch= t́m cách làm cho chính đáng.) (1) Ở đây nói cải huấn v́ đi vào Vita Nova/Cuộc đời mới tức là đi vào chế tạo tác phẩm có nghĩa một sự giáo dục (éducation), tự-giáo-dục (auto-éducation), tức là cải huấn (rééducation), hiểu ngầm là thay đổi từ một lối sống ngày sang một lối sống khác, quan niệm đời sống này là phong phú mà không sợ cái siêu ngă (sur-moi) lên án sự phong phú này chỉ là phù du. Barthes đưa ra những chi tiết về những qui củ/régimes  của một vài nhà văn khá lư thú: thực phẩm, nhà văn ăn ǵ (J-P. Richard viết về các món ăn khoái khẩu của Flaubert, Huysmans, Proust; Nietszche trong Ecce Homo đề cập vấn đề thực phẩm) và cho rằng phong cách thực phẩm (style de nourriture) có tính cách tượng trưng có tương quan với phong cách tác phẩm (style de l’œuvre) và đề nghị nên có những triết lư về thực phẩm; uống thuốc ǵ theo những nhu cầu của cơ thể, trang phục và quan trong hơn nữa là cách trang phục ra sao, chọn chỗ ở thích hợp [Barthes thiên về autarcie nghĩa là nơi cư trú ẩn dật giản dị, tốt nhất là ở thôn quê]. Pḥng làm việc (viết văn) đối với Barthes cần có hai yếu tố quyết định: ḷ sưởi (Céline và Artaud cần ḷ sưởi lửa cháy lớn để viết), kiểu đèn, và bàn viết thân quen với những dụng cụ ưa thích tùy theo từng người (Barthes thích có giường ngủ kế bên bàn viết.) Pḥng làm việc có hai chức năng là hài ḥa (harmonie) và yên ắng (pacification). Về giờ giấc viết của nhà văn Barthes nhận thấy có hai loại nhà văn: nhà văn viết ban ngày như Valéry và nhà văn viết ban đêm như Flaubert, Kafka viết quyển Án xử một lèo từ 10 giờ tối đến 6 giờ sáng, Proust lấy đêm làm ngày.

   Có những lư do thực tiễn để viết vào ban đêm: yên tĩnh, thanh thản, không bị quấy rầy. Nhưng Barthes lại quan tâm tới những h́nh ảnh huyền hoặc (images mythiques) sau đây: cái không gian huyền hoặc của việc Muốn-Viết (Vouloir-Écrire) là chủ đề của giáo tŕnh. Chẳng hạn một vài h́nh ảnh: Ư tưởng có từ xưa cho rằng Đêm có thể là một thực thể nguyên sơ (substance primordial) đối với Ngày, Thực thể-Mẹ (Substance-Mère), Tiền Thực thể (Substance Antérieure), Đêm là Mẹ của ngày. Ngược với Ngày là phân ly Đêm là kết hợp (ngày phân ly trong khi đêm kết hợp t́nh nhân). Kafka không thể viết nếu không biết trước có được thời gian liên tục, Balzac  không thể làm việc nếu không có ít nhất ba giờ để viết. Đêm cũng c̣n là một không gian đồng nhất đối với nội tâm sâu thẳm, thứ nội tâm được cảm nhận như là đời sống đích thực: đối với nhà văn viết ban đêm, đời sống thực sự chỉ bắt đầu khi giam ḿnh trong pḥng, bật ngọn đèn khởi hứng lên. Dường như làm việc ban đêm tạo sự sướng khoái ngược ngạo thích nghịch đảo Ngày thành Đêm và ngược lại, một sự nghịch đảo trái với tự nhiên (Barthes nhận xét: súc vật nuôi trong nhà không làm như vậy, trừ con mèo có lẽ là con vật văn chương đích thị) và chống lại xă hội. Barthes thú nhận những điều nói trên là do tưởng tượng thôi chứ bản thân ḿnh là một “nhà văn” hay một scribens của buổi sáng, không bao giờ viết vào ban đêm nên chính v́ lẽ đó lại hay mơ tưởng, ham muốn làm việc vào ban đêm nhưng thể xác không thích hợp cho việc viết về đêm. Chúng ta nhận thấy những điều Barthes tŕnh bày ở trên xem ra chỉ có thể thực hiện đối với những nhà văn sống được nhờ thu nhập của tác phẩm hay gia đ́nh sung túc giàu có, c̣n đối với những người muốn viết nhưng ở trong hoàn cảnh phải kiếm sống ban ngày th́ quả thực không thực tiễn chút nào.

   Nhánh cuối cùng của “biện bạch của sự ích kỷ” sự cô độc/tịch của nhà văn (la solitude de l’écrivain), là kinh nghiệm sống cô độc chứ không phải cô độc siêu h́nh hay nghệ thuật, nghĩa là mối quan hệ thực tiễn với người khác khi họ buông tha không xen vào đời sống nhà văn hay không chịu để nhà văn “sống một ḿnh/vivre seul.” Barthes giới hạn vấn đề “sống một ḿnh” của nhà văn với bạn bè và thân hữu, “Phải phân tích hoàn cảnh sống của những bạn bè thân quen: sự tận tâm, trung thành, không ganh tỵ (?) có lẽ cả sự không am hiểu văn chương của họ. Tất cả những cái đó có những hậu quả xâu sa trên hành xử của nhà văn đối với tác phẩm của anh ta: chỉ cần một lời nói bông đùa giữa bạn bè với nhau vui miệng nói ra thôi cũng có thể soi sáng hay làm sai lệch, hay ngay cả phá hủy tác phẩm. Và v́ vậy cũng nên phân tích sự chống đối, phản kháng âm thầm ít nhiều của nhà văn đối với bè bạn: kinh nghiệm – hay thực tập – sống cô tịch không được thực hiện đối với thế giới, đối với những kẻ bất hảo, nhưng là đối với những người thân cận, bạn bè→ khủng bố, vực thẳm đôi khi khơi rộng ra từ lời nói của một người bạn bỗng tạo ra một sự không hiểu nhau, một khoảng cách, một trạng thái đáng sợ của sự không-đồng-lơa.” (2) Trong khuôn khổ vấn đề thực hành viết th́ đơn giản chỉ là việc dành th́ giờ cho bạn bè dưới hai h́nh thức: lâu lâu có cuộc họp mặt thu nhỏ những người bạn thân hay tiệc tùng chiêu đăi đông người mục đích để trả lễ bạn bè trong khuôn khổ thời gian đă định dành ra để c̣n phần lớn thời gian c̣n lại để viết; hoặc chia khoảng thời gian dành cho bạn bè qua việc gặp gỡ tay đôi trong khoảng thời gian ngắn. Nhưng dù bằng cách nào đi nữa th́ vẫn có sự xung đột giữa Tác phẩm và T́nh bạn v́ mối tương quan này không đơn giản chỉ là vấn đề thời gian. Người viết thường ích kỷ trong việc dành thời gian để viết, nhưng thời gian gần gũi bạn bè để có được cảm giác ḿnh được bạn bè yêu mến và để nghĩ về bạn bè, để tỏ bày sự ân cần, chia sẻ những âu lo của bạn bè lại cũng rất cần thiết cho Tác phẩm. Làm sao cân bằng thời gian dành cho bạn bè và thời gian dành cho việc viết ở mức tối đa? Giữa Tác phẩm và T́nh bạn Barthes nhận thấy có một thứ lỗ hổng rộng hoác (béance), một ngả xuất huyết rộng của đập ngăn quanh tác phẩm nên đề nghị một công thức giải quyết: “được sống một ḿnh nhưng vẫn được người khác vây quanh.”(3) Không biết chắc sự cô độc của nhà văn có những chức năng nào nhưng Barthes cho rằng sự cô độc này được sống trải theo những h́nh ảnh khác nhau, những h́nh ảnh này cùng lúc hay lần lượt xuất hiện: cô độc như một sự Thiết yếu, cô độc như sự gỡ bỏ những “thắt buộc” (constrictions) do thế giới áp đặt, cô độc như sự điên khùng (folie) hiểu theo cả hai nghĩa tốt xấu như sự liều lĩnh và mê hoặc của sự điên khùng như Kafka viết trong Nhật kư ngày 15 tháng 8, 1913: “Tôi cách ly ḿnh khỏi mọi người đến mức độ không c̣n có ư thức. Tôi biến tôi thành kẻ thù của tất cả mọi người, tôi không truyện tṛ với bất kỳ ai.” Vấn đề mất ư thức lại tái diễn: Năm 1918 Kafka hứa hôn lần thứ ba với Julie Wohryzeck trong lúc bị lao phổi, đến sống trong một dưỡng trí viện ở thôn quê và một lần nữa lại nghĩ đến từ bỏ “sự ham muốn có một sự cô độc đến mức mất ư thức” v́ vậy Barthes cho rằng Cô độc có chức năng của một dược liệu (drogue) và Tác phẩm là một sự Điên khùng, một thứ đáo hạn của ư thức (péremption de la conscience) về thế giới, đảo nghịch thực tại. Kết thúc phần nói về Cô độc/tịch của nhà văn Barthes đề cập tới một vấn đề có liên hệ là sự bí mật hay bán-bí-mật, lén lút hay bán lén lút (clandestinité, semi-clandestinité) của nhà văn, giữ kín hay nửa kín nửa hở về tác phẩm ḿnh đang viết. Dĩ nhiên như trong quá khứ cho thấy có những nhà văn như Flaubert, Kafka, Gide…đọc cho bạn nghe một bản thảo hay một phần bản thảo nhưng làm vậy một cách miễn cưỡng nên thường không muốn để bạn bè nêu ư kiến hay phán đoán. Nhưng những thứ đọc cho bạn nghe hay để bạn đọc trước hay tiết lộ với bạn bè trong thư từ giao dịch lại không phải là Tác phẩm hiểu theo nghĩa Tác phẩm đồ sộ nhà văn vẫn ấp ủ và dấu kín. Trong suốt giáo tŕnh La Préparation tuy Barthes cho viết hoa chữ Tác phẩm nhưng đọc kỹ ta nhận thấy quan niệm về Tác phẩm của Barthes chưa dứt khoát rơ rệt: như thói quen thông thường người ta gọi một quyển sách đă viết hay đă xuất bản là một tác phẩm, nhưng Mallarmé và Blanchot lại quan niệm những ǵ đă viết ra đó chỉ là những quyển sách (livres), và v́ văn tự luôn hướng tới quyển sách trong tương lai (livre à venir), quyển sách sẽ viết nên Tác phẩm là Đài Tưởng Niệm (Monument). Tuy Barthes cuối đời chịu ảnh hưởng của Blanchot nhưng vẫn ngập ngừng đối với quan niệm vể Tác phẩm của Blanchot. Về mối tương quan giữa bạn bè và Tác phẩm Barthes nêu tiêu chí sau đây: một nhà văn có thể nói cho bạn bè biết về một Dự án tác phẩm khi chưa được thực hiện (nhiều khi đó chỉ là mơ tưởng) nhưng khi đă bắt tay vào thực hiện th́ lại cẩn trọng giữ kín, nhà văn trở thành bí mật và như thể ghen tuông nữa. Khi được hỏi “Hồi này chị/anh đang viết ǵ?” nếu nhà văn nói ḿnh đang viết ǵ th́ rất có thể là chưa viết ǵ cả, nhưng nếu đă bắt đầu viết rồi th́ lại lảng tránh không trả lời thẳng vào câu hỏi. Tại sao vậy?  Thứ nhất, v́ e ngại/thẹn (pudeur): e ngại v́ không thể nắm bắt hết được việc ǵ đă xảy ra với ḿnh, sự kiện thực sự tác phẩm diễn tiến ra sao, miễn cưỡng hay chống đối lại việc để cho người khác “vào bếp” xem ḿnh “nấu nướng” tác phẩm ra sao cùng với tất cả “sự chuẩn bị” có những xào xáo. Thứ nh́, khi Tác phẩm đang trong thời kỳ hoàn thành th́ tác gia coi Tác phẩm như “c̣n sống” (vivante) nhưng khi đă viết xong tác gia coi như Tác phẩm “đă chết” trong khi đối với người khác lại coi Tác phẩm là “c̣n sống”. V́ vậy Tác phẩm trong giai đoạn hoàn thành đối với tác gia là “c̣n sống” và thiêng liêng nên dấu kín/diếm, sự dấu kín này có thể coi như một t́nh yêu hay như một Thượng đế ẩn, khuất mặt (Deus absconditus/Dieu caché). Thứ ba, rất có thể nhà văn muốn ḿnh là kẻ ẩn,vô/danh đối với xă hội, trong lúc đang viết Tác phẩm lại giả bộ ḿnh đang làm một công việc ǵ khác. Sau hết, theo Barthes “ư chí của sự dấu diếm có thể là sự chấp nhận có tính triết lư một dữ kiện bi thảm: rằng nhà văn cuối cùng (ư tôi nói: cho đến chết) trách nhiệm về văn tự/bản viết của ḿnh; chỉ riêng ḿnh hoàn toàn ở trong trách nhiệm này; khi Tác phẩm chưa hoàn tất hắn không thể trao trách nhiệm này cho bất kỳ ai. Ai là kẻ trách nhiệm về Bản viết/văn? Trước tiên là Tôi: chính là từ nơi tôi mà ra, nói về Bản viết/văn, những vết thương không thể nào xóa bỏ, những thất bại, những hoảng loạn v.v…- Dĩ nhiên, khi tác phẩm đă hoàn tất, trước khi được xuất bản, ra mắt công chúng, một thân hữu cẩn trọng có thể chỉ ra những lỗi lầm, những thiếu sót – thân hữu này có thể  can thiệp một cách kịp thời trên những câu văn, những phân đoạn cần có; nhưng những nhiệm vụ này chỉ liên quan tới việc chỉnh trang/quét dọn, chứ không phải là tạo thành → “Lời khuyên” (…) có thể có vị trí của nó nhưng chỉ là ở tận cuối nguồn hay ớ tận thượng nguồn.(4)

____________________________

(1)     La Préparation, 297: Pourquoi se “sacraliser”?  Parce que ça  donne la force d’un certain égoisme, celui sans lequel l’Œuvre ne peut se faire→ sorte d’auto-manipulation = subsituer à la charité (ou, si ce mot gêne, à la générosité) (être disponible à tous) une autre instance, qui participe, elle aussi, d’un certain “religieux”, c’est-à-dire d’un lien fondamental à la nature, au monde → et qui est l’Écriture → si j’emploie le mot “égoisme”. c’est parce qu’il nous permet d’entrer dans une série de problèmes pratiques (relatifs à la pratique d’écriture), noués autour de l’ego → Celui qui veut écrire doit en effet organizer son ego d’écrivant (scribens) selon un ensemble de calculs, ou plus généralement de traits de vie: ce que Nietszche appelle curieusement “la casuistique de l’égoisme” → Dans Ecce Home, dernière œuvre, Nietszche expose au grand jour, avec emphase, passion et verve, sans frein, le détail de ses goûts, de ses habitudes, de ses régimes: “On me demandra pourquoi au juste j’ai raconté toutes ces choses mineuses, et selon l’opinion courante, insignifiantes…” Réponse: ces choses mineures – alimentation, lieu, climat, délassements, toute la casuistique de l’égoisme → sont infiniment plus importantes que tout ce que l’on a jusqu’à present tenu pour important “C’est justement par cela qu’une rééducation doit débuter.” (Casuitique= élaboration justificiatrice)

(2)     La Préparation, 311: Il faudrait analyser la situation existentielle des partenaires: dévouement, fiabilité, non-jalousie (?), incompréhension littéraire, aussi, peut-être. Tout cela ayant des conséquences subtiles sur le comportement de l’écrivain à l’égard de son œuvre: un mot d’ami, dit en passant, peut éclairer, ou dévier, ou même tuer l’œuvre. (………..) Et donc, aussi, résistance plus ou moins sourde de l’écrivain à ses amis: l’expérience – ou l’apprentissage – de la solitude ne se fait pas par rapport au monde, aux malveillants mais par rapport aux proches, aux amis → terreur, abîme qui s’ouvre parfois du mot d’un ami, qui tout d’un coup dénonce une incompréhension, une distance, un état affreux de non-complicité.

(3)     La Préparation, 312: D’où une pratique subtile de la Solitude; l’équilibre optimal serait atteint par cette formule: être seul entouré (avec la nuance effective) par les autres (pour moi, à la fois j’ai besoin de la solitude, mais je ne l’aime pas fanatiquement: j’aime les autres soient là, autour de moi).

(4)     La Préparation, 316: En fin, la vonlonté de clandestinité peut être l’acceptation philosophique d’une donnée tragique: que l’écrivain est à fond (je dirai: à mort) responsable de son écriture; il est traversé de part en part par cette responsabilité; il ne peut la déléguer à personne, tant que l’Œuvre n’est pas faite. Qui est responsable du Texte? – Moi, le premier: c’est de moi que, à propos du Texte, viennent les blessures les plus ineffaçables, les déconfitures, les affolements, etc. – Certes, l’œuvre faite, avant d’être publiée, livrée au public, un regard amical et vigilant peut suggerer des fautes, des oublis – peut intervenir ponctuellement sur des phrases, au besoin des paragraphes; mais il s’agit de tâches de nettoyage, non d’élaboration → Le “conseil” (…) ne peut se situer que très en aval ou très en amont.

 

((c̣n tiếp)

 

đào trung đąo

 

http://www.gio-o.com/daotrungdao.html

 

 

© gio-o.com 2014