đào trung đąo
3-Zero
± triết học ± lư thuyết văn chương ± phê b́nh văn chương
≤ cùng một khác
(13)
Kỳ 1, Kỳ 2, Kỳ 3, Kỳ 4, Kỳ 5, Kỳ 6, Kỳ 7, Kỳ 8, Kỳ 9, Kỳ 10, Kỳ 11, Kỳ 12,
Như đă nói trong bài mở đầu giáo tŕnh Phần I Từ Cuộc đời sang Tác phẩm/De la vie à l’œuvre khi bàn về viết tiểu thuyết Barthes – như một diễn viên chính ra trước sân khấu giới thiệu tác giả của vở kịch (Parabase) – sẽ lại giả dạng (Simulation) như một người viết tác phẩm, một tay viết văn Tài tử (Amateur) giả dạng Nghệ sĩ/Nhà văn, và theo Barthes Nhà văn thật ra đôi khi cũng cần giả dạng là Tài tử. Barthes minh xác sẽ không đưa ra phương pháp viết tiểu thuyết nhưng Giả dạng cũng có thể coi như một phương pháp tương tự như trong khoa học thực nghiệm người ta thường dùng phương pháp nghiên cứu bằng cách tạo một dụng cụ kích thích những nguyên nhân để sản xuất ra những hậu quả nhằm t́m ra mối tương quan giữa hai thành phần này. Và Barthes gọi đối tượng sản xuất bởi và cho sự Giả dạng/thử này là một Mẫu (Maquette) thu nhỏ, phác họa tác phẩm, như Tác phẩm sẽ thực hiện (maquette=machietta=petite tache= ébauche). Xét về mặt tri thức luận ta thấy có những h́nh thức chứng minh dập theo Mẫu này chẳng hạn như cách đưa ra thí dụ (Exemple) trong ngữ học biến đổi (liguistique transformationelle). Khoa mgữ học này thường sử dụng những thí dụ tức là một Mẫu Câu để rút ra một nguyên tắc nào đó và Mẫu cũng là Ẩn dụ soi sáng (Métaphore illuminante): Barthes trích dẫn đoạn văn Diderot mô tả cái máy dệt vớ/tất tuyệt vời có khả năng chỉ trong một khoảnh khắc thực hiện rất nhiều động tác khác nhau nếu như làm bằng tay phải mất nhiều giờ như một ẩn dụ. Nhưng xét về mặt văn chương, bản viết, th́ tác phẩm như một công tŕnh, một sản phẩm được thần thánh hóa, được tŕnh bày mặc định như một sự tự giả dạng. Đó là những tác phẩm tŕnh bày chính cách tạo nên chúng. Theo Barthes, cần phân biệt rơ cấu trúc trong cấu trúc (structure en abyme) với tác phẩm-mẫu phác thảo (œuvre-maquette). Trong trường hợp thứ nhất đó là tác phẩm trong tác phẩm, bức họa trong bức họa (1) chẳng hạn nhân vật Roquentin thực hiện việc viết một cuốn tiểu thuyết trong tiểu thuyết La nausée của Sartre. C̣n tác phẩm-mẫu phác thảo (œuvre-maquette) tự nó tŕnh bày như chính thử nghiệm của ḿnh chẳng hạn như quyển Vita Nova/Cuộc đời mới của Dante, quyển tiểu thuyết Les Faux-Monnayeurs/Những tay làm bạc giả của Gide, truyện The Raven/Con Quạ của Poe, và trường hợp thật tinh vi là quyển À la recherche du temps perdu của Proust. Gọi là tinh vi v́ quyển tiểu thuyết của Proust vừa là truyện trong truyện vừa là tác phẩm-mẫu phác thảo (œuvre-maquette), hai h́nh thức này không cố định và trượt vào nhau. Barthes cũng nêu ra một thí dụ tương tự như trong cuốn phim gợi dục (film pono): cảnh chiếu trên màn là cảnh thu h́nh những khán giả trong một rạp chiếu phim đang xem cuốn phim gợi dục (phim trong phim), không có một chuyển động nào khác ngoài những ǵ diễn ra trên màn h́nh trong cuốn phim và những khán giả trong rạp bắt đầu diễn lại những cử động trong cảnh họ đang xem (maquette), và nếu những khán giả trở thành những cặp làm t́nh th́ ‘maquette’ sẽ ở cấp độ thứ ba.(3)
Tuy không hẳn cho Giả dạng như một phương pháp nếu xét về mặt lư thuyết hay phê b́nh văn chương nhưng Barthes cho rằng trong sự giả dạng có sự phối hợp phân tích tinh thần (analyse intellectuelle) với phân tích chủ quan tính (analyse de la subjectivité) như sức mạnh của ham muốn và làm như vậy sẽ có cái lợi là là thấy được sự khác biệt giữa việc tự đặt ḿnh vào trong hoàn cảnh (se mettre dans la situation) với tự đặt ḿnh vào vị trí (se mettre en position) sửa soạn viết tác phẩm. Trong trường hợp giáo tŕnh này Barthes không viết ra một tác phẩm tiểu thuyết nào, hơn nữa v́ “hoàn cảnh” là điều kiện kinh nghiệm để thực hiện, cho nên đúng ra Barthes chỉ ở trong “vị trí” tưởng tượng đóng vai tṛ sửa soạn cho việc viết tiểu thuyết mà thôi. Barthes loan báo trong những buổi giảng kỳ giáo tŕnh tới sẽ xoay quanh một truyện kể/récit: nhưng truyện kể này tiếc thay chẳng có ǵ hồi hộp ly kỳ (thrilling, Barthes dùng từ tiếng Anh) bởi đây chỉ là câu chuyện tâm t́nh của một người nào đó muốn viết (viết một tác phẩm, hay chỉ là viết) và đưa ra những phương tiện để hoàn thành sự ham muốn, ư chí, hay thiên hướng (vocation) hiểu như một mời gọi, theo những giai đoạn: 1) Viết: từ đó Sức mạnh, hay Ư chí viết, trong bản thân sẽ khởi đi; 2) Đưa ra những thử nghiệm (épreuves) phải trải qua để viết, để bắt đầu, một tác phẩm. (4) ‘Người nào đó’ Barthes nói đến ở trên là một người viết kết hợp (home composé) giả dạng dưới một bút danh giả (home pseudonymique) nào đó, khi th́ có tên là Flaubert, khi th́ là Kafka, Rousseau, khi th́ lại là Mallarmé, Tolstoï, hay Proust. Nhưng kẻ giả danh làm sao lại dự phần được vào sự thành công của những tên tuổi ḿnh đội tên, tôi giả danh này làm sao có thể tự cho phép dựa vào uy tín của những nhà văn này, lộn ṣng vào những tên tuổi đó được? V́ sao bạn lại tự coi ḿnh là một nhà văn được? Theo Barthes, điều này là có thể chỉ được hiểu theo một nghĩa khi nào tôi thực sự lao đầu vào công việc và dám sống, tuy không so sánh ḿnh với những nhà văn kể trên nhưng tự đồng hóa ḿnh với họ qua tưởng tượng. Tưởng tượng ra công việc chứ không tưởng tượng là ḿnh một ai. Nhưng một người khi đă quyết định đi từ viết sang viết một cái ǵ đó sẽ gặp phải những khó khăn đớn đau lúc khởi sự do những cân nhắc, những quyết định dang dở, khó khăn, những khổ năo của ư chí và của ḷng ham muốn, nghi ngờ, nản ḷng, thử nghiệm, bế tắc, ṃ mẫm. Đó là→ “Cả một cuộc hành tŕnh bắt đầu; như một con đường khởi đầu: những thứ phải vượt qua. Tôi [Barthes] sẽ thử định nghĩa và mô tả ba thử nghiệm (như tôi đă nói: giáo tŕnh=như một kịch bản: xem: vở Turandot – những thử nghiệm ai muốn viết sẽ gặp trên đường.”(5)
Ba thử nghiệm đó là: 1) Thử nghiệm có tính cách trừu tượng: quyết định viết Ǵ (quoi écrire), nghĩa là chọn lựa, và đây là thử nghiệm đối tượng trong đó khuynh năng viết phải đặt trên một đối tượng, phải loại bỏ những đối tượng khác, nghĩa là cần có chọn lựa tốt bởi sẽ phải mang theo đối tượng này suốt dọc đường viết, nếu nửa chừng bỏ ngang để quay sang một đối tượng khác th́ đó sẽ là nhược điểm phải tránh. 2) Thử nghiệm cụ thể, thực hành: Từng bước tổ chức đời sống sao cho thích hợp với việc viết, v́ phải vượt qua những chặng đường dài nên cần Kiên tŕ.V́ vậy đây là một thử nghiệm của Thời gian (épreuve du Temps). 3) Thử nghiệm đạo đức: thử đánh giá xem tác phẩm sẽ viết ra sẽ được xă hội phán xét thế nào (supputation du jugement de la société sur l’œuvre), nghĩa là tác phẩm sẽ viết ra có sự phù hợp với xă hội lịch sử (social historique) không, trong trường hợp nếu như nhà văn buộc phải chấp nhận xă hội phán xét là tác phẩm có yếu điểm không phù hợp (có tính cá biệt, đơn độc) th́ đó là thử nghiệm của sự Ly khai xă hội (Schize sociale). “Tóm lại: Đó là ba thử nghiệm: Nghi ngờ, Kiên tŕ, và Ly khai (tách khỏi xă hội)”(6)
1. Thử nghiệm thứ nhất: Trước hết là vấn đề nội dung của tác phẩm sẽ viết. Barthes không khứng khái niệm “nội dung” vốn thời thượng nên chỉ dùng khái niệm này để qui chiếu về khái niệm quan trọng hơn: H́nh thức. Về ‘triết lư’ của tác phẩm th́ sao? Barthes không hậu thuẫn các tác giả ẩn núp dưới một triết lư nào đó. Nhà văn Barthes khen ngợi về vấn đề này: Proust. Trong bức thư gửi cho Jacques Rivière bạn thiết Proust cho biết đă quyết định không phát biểu triết lư của ḿnh trong tác phẩm. Hơn nữa Proust rất không ưa những tác phẩm chứa đựng ư thức hệ v́ thường thường những tác phẩm loại này chỉ ra sự thất bại của tác giả trong ư hướng đưa ra một triết lư. Theo Barthes: “Triết lư của tác phẩm có thể là đi đôi/đồng thời chứ không nhất thiết phải là động lực (có phải chính v́ lẽ đó chúng ta thích thú khi đọc Proust?) (7) Về nội dung tức là những chủ đề của tác phẩm: đó là vấn đề lư thuyết văn chương, vấn đề phương pháp. Có những tiêu chí khả dĩ để chúng ta xét chủ đề hay nội dung của một tác phẩm: Trong truyện ngắn Chủ và Tớ của Tolstoï người ta có thể cho rằng tất cả chỉ là để đặt ṿng nguyệt quế đạo đức vinh danh tính nhân đạo, nhưng Barthes lại cho rằng chủ đề của truyện là Tuyết, Tuyết Đen. Chủ đề của Hồi tưởng Thời gian đă mất của Proust phức tạp hơn v́ có tác phẩm này có nhiều chủ đề: triết lư về thời gian, vấn đề của một người muốn viết văn nhưng thất bại, sự triển khai lấp lánh phong phú bền bỉ của một câu tục ngữ thật đơn giản “Hóa ra quả đất tṛn!/Comme le monde est petit!”, hoán dụ (métonymie) về giấc ngủ, giấc nửa tỉnh nửa mê như điểm khởi hành của tác phẩm và cũng là hoán dụ về trạng thái luân lư và siêu h́nh của thế giới: sự phá hủy vách ngăn (décloisonnement) thời gian và tuổi tác của nhân vật Tự sự. Chính ở điểm này người ta có thể có nhiều lối giải thích À la Recherche du Temps perdu theo nhiều cách khác nhau. Barthes đưa ra một qui tắc tổng quát: “Nói chung, tác phẩm không cho phép chúng ta khám phá ra chỗ bắt đầu, dạng thức giao động = cái h́nh ảnh được đặt trước mắt tác giả, cái h́nh ảnh tác giả ham muốn, và chính sự ham muốn này đă cho phép tác giả đi từ viết sang viết về một cái ǵ đó.”(8) Barhtes nhấn mạnh vấn đề của giáo tŕnh là vấn đề của người thực hành viết, muốn viết, cụ thể thực hành viết một tác phẩm. Cho nên “nội dung” hay chủ đề chắc chắn không phải hay trước hết không phải là một phạm trù thi pháp (catégorie poétique) tức thực hành/làm nhưng là một phạm trù của những nhà phê b́nh, giáo sư, lư thuyết gia văn chương chứ không phải của người thực hành viết văn. Nghệ sĩ, nói như Nietszche là Apollon hay Dionysos chứ không phải là Socrate, hay như Mallarmé đă chỉ ra: “phải qua mặt Siêu h́nh học để tiến tới Vật lư học của quyển sách.”
_____________________________________
(1) La Préparation, 232: Structure en abyme: œuvre dans une œuvre, comme tableau dans une tableau.
(2) La Préparation, 232: Un cas très retors: À la recherché du temps perdu: virtuellement, à la fois œuvre en abyme: le roman que le narrateur veut fair mais dont il constate l’échec (échec du vouloir-écrire) + œuvre-maquette, puisque finalement ce roman se trouve être La Recherche du temps perdu elle-même. Comme si la maquette fondait, se dissolvait au profit de tout ce qu’elle draine et drague: un monde (ou un triple monde: de l’amour, de la mondanité et de l’art). Il y a instabilité, glissement instable entre l’abyme et la maquette→ l’enjeu étant la production (l’action).
(3) Thật ra trong các dâm thư Trung-Ấn xưa đă tả cảnh hoặc in h́nh cảnh cặp nam nữ (tuy có sự đồng thuận nhưng người nam thường chủ động dụ hoặc người nữ) nh́n trộm (voyeurisme) một cặp nam nữ khác đang làm t́nh, và người đọc/xem dâm thư/h́nh vẽ chính là nh́n trộm ở cấp độ thứ hai.
(4) Sđd, 234: 1) Écrire: d’où part en moi la Force, la Volonté d’écrire? 2) Les épreuves que je dois traverser pour faire l’œuvre = une initiation.
(5) Sđd, 235: Toute une pérégrination commence; comme un chemin initiatique: des choses à surmonter. Je vais essayer de définir et de décrire trois épreuves (j’ai dit: cours = comme une pièce de théâtre: cf. Turandot – épreuves que celui qui veut écrire rencontre sur sa route. [Vở kịch dụ ngôn bi hài La Princesse Turandot do Carlo Gozzi dựng năm 1762 ở Venise trong đó nàng công chúa đưa ra ba câu đố cho mỗi kẻ đến cầu hôn và nếu không giải được sẽ bị chém đầu. Có thể ở đây Barthes cũng có ư nhắc tới vở Turandot và Đại hội Thợ giặt của Bertolt Brecht (1954).
(6) Sđd, 236: →Donc trois épreuves: le Doute, la Patience, la Séparation (la Sécession).
(7) Sđd, 238: La philosophie de l’œuvre peut être concomitante, main non forcement motrice (au reste, est-ce vraiment cela que nous consommons dans Proust?)
(8) Sđd, 239: En général, l’œuvre ne permet pas de retrouver son point de depart, la figure de son branle = l’image qui a été devant l’auteur, qu’il a désiré, dont le désir lui a permis de passer de l’écrire à écrire quelque chose.
(9) Sđd, 239: Pour utiliser une terminologie mallarméenne: il faut passer de la Métaphysique à la Physique du livre.
((c̣n tiếp)
đào trung đąo
http://www.gio-o.com/daotrungdao.html
© gio-o.com 2013