Đặng Phùng Quân
triết học nào cho
thế kỷ 21
2
Tiếp theo từ các kỳ 1 , kỳ 2 , kỳ 3 , kỳ 4, kỳ 5, kỳ 6, kỳ 7, kỳ 8, , kỳ 9, kỳ 10 , kỳ 11, kỳ 12, kỳ 13, kỳ 14, kỳ 15, kỳ 16, kỳ 17, kỳ 18, kỳ 19, kỳ 20, kỳ 21, kỳ 22, kỳ 23, kỳ 24, kỳ 25, kỳ 26, kỳ 27, kỳ 28, kỳ 29, kỳ 30, kỳ 31, kỳ 32, kỳ 33, kỳ 34, kỳ 35, kỳ 36,
2/ những bước ngoặt ở cuối-thế-kỷ
Từ thập niên 60 của thế kỷ 20, phong trào tư tưởng cấu trúc luận bùng xuất mạnh mẽ, tạo một chấn động lớn trong việc xét lại mọi mặt, từ cơ sở, phương pháp đến vị thế khoa học, xét lại ư nghĩa của lịch sử và biện chứng pháp, ư thức và vô thức, con người và chống con người (như trong khoa học tự nhiên, vật chất và phản vật chất) - điều quan trọng nhất là phải chăng triết học cáo chung, nhường chỗ cho những khoa học nhân văn?
Tại sao vậy? Thử xét những tư trào cấu trúc luận ở hai vùng khác biệt, như Pháp và Anh/Mỹ: ở Pháp những đại biểu chính của cấu trúc luận như R. Jakobson là một nhà ngữ học, C. Lévi-Strauss là một nhà nhân loại học, M. Foucault là một triết gia chuyển biến tri thức luận, J. Lacan là một nhà phân tâm học, R. Barthes là một nhà phê b́nh văn học; ở Anh/Mỹ, E. Leach là một nhà nhân loại học (chịu ảnh hưởng Lévi-Strauss, ví như Ernest Jones đối với Freud), sự phát triển cấu trúc luận bắt nguồn từ tổng hợp những lănh vực đa biệt, từ dân tộc học/folklore (du nhập từ lư luận của nhà nghiên cứu người Nga Troubetzkoy), bác ngữ học/philology Đức và triết lư phân tích, học thuyết Charles Sanders Peirce, Lewis H. Morgan, ngữ học với Zellig Harris và Noam Chomsky. Xét trên b́nh diện quốc tế, vị thế của Lévi-Strauss, Foucault, Barthes có tầm ảnh hưởng rộng lớn đến độ nói đến cấu trúc luận không thể vượt qua những nhân vật này, bất kể ranh giới địa chí. Có thể nói, những biến động lịch sử từ áp lực bạo chế phát-xít tạo một cơ hội di chuyển chất xám sang vùng đất mở rộng đón làn sóng trí thức lưu đày là đất Mỹ đă dậy lên tinh thần siêu quốc khởi từ trước và sau Thế chiến Hai. Morgan (1818-1881) và Peirce (1839-1914) thật ra là những nhà tư tưởng của thế kỷ 19, song khái niệm về quan hệ hỗ tương trong hệ thống liên hệ thân tộc của Morgan và khái niệm cấu trúc là cái mà sự vật phụ thuộc hơn là sở hữu là những khái niệm cấu trúc luận lấy lại trong thời đại mới này. Về mặt cấu trúc ngữ học Mỹ cũng phân biệt với trường phái Pháp ở chỗ nghirên cứu cấu trúc dựa trên những ngôn ngữ đặc thù thay v́ phổ quát. Những công tŕnh nhân loại học, ngữ học của Victor Turner, Harold Scheffler và Floyd Lounsbury, Clifford Geertz, Kenneth Pike, J. Culler, René Girard đánh dấu đa hiệu thay v́ phụ thuộc vào một phong trào.
Sự khác biệt về mặt triết học giữa cấu trúc luận và hiện tượng luận rơ rệt ở chỗ, cấu trúc luận chú trọng đến những quan hệ hơn là yếu tố, đến cấu trúc hơn là là bản thể, đến cơ sở ngoại tại hơn là nội tại, giải thích/erklären hơn là lư hội/aufklären tuy nhiên không phải giải thích sự kiện mà là giải thích tại sao sự kiện có ư nghĩa. François Wahl trong dẫn nhập tác phẩm tập thể về cấu trúc luận xác định: nếu danh xưng cấu trúc luận đáp ứng điều ǵ, chính là một cách thế mới đặt để và khai thác những vấn đề trong những khoa học khảo kư hiệu: một cách thế khởi đầu với ngữ học Saussure.
Khi luận về làm thế nào nhận biết cấu trúc luận, Gilles Deleuze xác định không chỉ riêng Saussure, mà cả trường phái Moskva và Pra-ha cũng là nguồn của cấu trúc luận. Theo ông, cái biểu tượng cùng với cái thực và cái tri tuởng là tiêu chuẩn khai phá cấu trúc luận; biểu tượng là một nhân tố của cấu trúc. Tương phản với triết học phi lư, chủ yếu thiếu ư nghĩa, cấu trúc luận chỉ ra quá thừa ư nghĩa, siêu sản xuất, siêu xác định ư nghĩa luôn luôn sản xuất quá thừa qua sự phối hợp những chỗ trong cấu trúc. Những nhân tố biểu tượng hay những thống nhất vị thế dựa vào cái ǵ? Lévi-Strauss chỉ ra “vị thế” trong nghĩa cấu trúc, tức là trong một không gian thực sự cấu trúc/tọa h́nh học. Những nhà tư tưởng khác như Foucault khi xác định những tất định như chết, dục vọng, lao động cũng coi theo vị thế, trong trật tự của cấu trúc, Althusser khi xác định cấu trúc kinh tế coi chủ thể thực trước hết ở trong một không gian tọa h́nh xác định bởi những quan hệ sản xuất (đó là lư do ông quan niệm có một “quá tŕnh phi chủ thể” trong chủ nghĩa Mác).
Nói chung, những nhà cấu trúc luận gặp nhau ở chỗ xét mọi sự trên b́nh diện những quan hệ, dầu là dưới dạng những dăy (hiểu theo nghĩa toán học), hay cấu trúc đơn giản nhất, hoặc khu biệt (hiểu theo nghĩa tích phân trong toán học).
Tác phẩm Phê phán lư trí biện chứng của Sartre xuất hiện vào 1960 (sau nhiều năm miệt mài nghiên cứu) đă là cung đàn lạc điệu trong thế giới cấu trúc, ngoài hai mục đích: một, để định vị chủ nghĩa hiện sinh như một giai đoạn cá thể nằm trong tổng thể là chủ nghĩa Mác (ông đưa ra ba thời kỳ sáng tạo triết học, thời của Descartes và Locke, thời của Kant và Hegel, sau cùng là thời của Marx, và xác quyết những triết học sau Marx, chống Marx hay vượt Marx chỉ là trở lại thời tiền Marx - cho nên để hợp lư, chủ nghĩa hiện sinh của ông nằm trong chủ nghĩa Marx), hai, để thanh toán với những ràng buộc kế thừa tư tưởng là Kierkegaard (khi vay mượn ngôn ngữ kư hiệu học hiện đại trong so sánh quan hệ ngữ ư/ngữ thái nơi Kierkegaard và Hegel) và Jaspers (khi c̣n là sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm, Sartre và mấy người bạn như Nizan toan tính dịch bộ Allgemeine Psychopathologie/Tâm bệnh học tổng quát của Jaspers đánh dấu bước đầu vào tư tưởng hiện sinh của Sartre). Chủ ư của Sartre khi nêu ra: “người Đan mạch [để chỉ Kierkegaard - ĐPQ] tái xuất hiện vào đầu thế kỷ XX, khi người ta [để chỉ tư tưởng tư sản - ĐPQ] tính kích bác biện chứng pháp mác-xít qua việc chống lại nó bằng những chủ nghĩa đa nguyên, những hàm hồ, những nghịch lư nghĩa là vào thời điểm tư tưởng tư sản lần đầu tiên thu giản vào pḥng vệ. Sựï xuất hiện một chủ nghĩa hiện sinh đức, giữa hai cuộc chiến, chắc chắn tương ứng, ít ra là nơi Jaspers, với một ư chí âm hiểm/sournoise volonté là làm trỗi dậy cái siêu việt”. (Để không tự mâu thuẫn trong hành trạng tư tưởng của ḿnh, Sartre tránh không phê phán người thày khi viết: trường hợp Heidegger phức tạp nên không thể tŕnh bày ở đây được). Aûnh hưởng của cấu trúc luận vào thập niên 60 này, như chính Sartre phải vay mượn, mạnh đến nỗi Sartre phản bác bằng luận điệu của một cán bộ chính trị khi cho rằng cấu trúc luận nhằm cấu thành một hệ tư tưởng mới, be bờ sau cùng mà giai cấp tư sản c̣n có thể dựng lên chống lại Marx (trong tạp chí L'Arc số 30, 1966 phần Jean-Paul Sartre répond).
Sartre nói đến lịch sử khi phê phán Foucault, đó cũng là nhan đề bài viết về quan hệ lịch sử và biện chứng của Claude Lévi-Strauss trong chương IX tác phẩm La pensée sauvage, 1962 để phản bác Sartre. Ông dẫn ra cái lúng túng của Sartre về hai quan niệm của lư trí biện chứng: khi th́ Sartre đối lập lư phân tích với lư biện chứng như giữa giả và chân, khi th́ cho hai lư này có vẻ bổ túc cho nhau như hai con đường khác biệt dẫn đến cùng những chân lư, mà tác phẩm mệnh danh Phê phán lư trí biện chứng là kết quả của thao tác bởi chính tác giả trong lư phân tích của ông khi định nghĩa, phân biệt, xếp loại và đối nghịch. Lévi-Strausse hỏi: làm thế nào lư phân tích có thể áp dụng vào lư biện chứng và nhằm xây dựng nó, nếu cả hai lư được xác định bởi những đặc tính loại trừ lẫn nhau? Ngược lại, nếu rốt cuộc cả hai lư dẫn đến cùng những kết quả, và những chân lư của chúng nhập vào một chân lư duy nhất, th́ dựa vào cái ǵ để đối lập chúng, và nhất là cho rằng cái này ưu việt hơn cái kia? Trong trường hợp thứ nhất, công việc của Sartre tỏ ra mâu thuẫn, ở trường hợp thứ hai tỏ ra hời hợt.
Những người tham gia vào cuộc tranh luận này như Jean Pouillon và Raymond Aron đưa ra những nhận xét: Theo Pouillon, cả hai nhà tư tưởng khởi từ cùng kinh nghiệm hiện sinh, nói rơ hơn là thiết lập thông giao giữa mọi xă hội, đặc biệt là giữa những xă hội thường gọi là nguyên thủy và xă hội công nghệ, phát triển của chúng ta; từ kinh nghiệm chung này, Lévi-Strauss nghĩ về sự đa biệt của các xă hội trên cùng một mức độ bằng nhau như thể mọi biến thiên cùng loại, trong khi Sartre nghĩ về chuyển biến của Nhân loại thông qua nhận thức hỗ tương những tổng thể xă hội của mỗi nhóm cho đến khi đạt tới một Chân lư toàn diện. Theo Aron, điểm hội tụ giữa Lévi-Strauss và Sartre ở chỗ họ nh́n nhận dây liên lạc giữa cấu trúc của đối tượng và phương pháp hay bản tính của nhận thức: một đằng ở Sartre, ư thức bao gồm thực tiễn v́ đối tượng biểu hiện cùng một cấu trúc biện chứng như chủ thể, không thể lư hội được biện chứng của thực tại nếu như thực tại không có tính biện chứng; một đằng ở Lévi-Strauss, những cấu trúc của những sự kiện nhân chủng học như trao đổi vợ, hay đối lập nhị thứccủa huyền thoại tái sinh sản ra cấu trúc của thực tại xă hội hay tinh thần con người. Cả hai nhà tư tưởng đều cùng hướng là đi t́m cái toàn thể hay tổng thể hóa, cái toàn thể hệ thống những đối lập nơi Lévi-Strauss hay cái tổng thể hóa của thực tiễn trong mỗi kinh nghiệm sống cá thể cũng như của xă hội chung nơi Sartre.
Sự khác biệt thực ra vẫn ở vấn đề triết lư về mặt hữu thể học, đó là ư thức cá thể hay thực tiễn cá thể nơi Sartre là thực tại chủ yếu, có trước, cho nên mọi nhận thức phải trở về kinh nghiệm sống này cấu thành lư trí, c̣n nơi Lévi-Strauss phân tích cấu trúc là phương thức nhận thức khoa học chính, nghĩa là những hệ thống nhị thức đối lập có trước, là những quy luật cho mọi chức năng xă hội.
Ở vào nửa sau thế kỷ XX có một hiện tượng chưa từng nhận thấy trong lịch sử tư tưởng về trước, đó là những chủ nghĩa hậu/post- với hậu hiện đại luận, hậu cấu trúc luận, hậu siêu h́nh học, hậu phân tích, hậu công nghiệp, hậu thực dân, hậu cộng sản v.v.. (không nghe nói đến hậu hiện tượng luận, hậu hiện sinh, hậu siêu thực v.v..?). Tại sao vậy? Có những khúc quanh tư tưởng, từ khúc quanh ngữ học/linguistic turn đến khúc quanh hủy tạo/deconstructive turn đánh dấu những chuyển biến quan trọng trong thời đại này. Thực ra khái niệm khúc quanh/Kehre là một dấu chỉ trong hành trạng của mỗi nhà tư tưởng, của mỗi tư trào: như trường hợp Heidegger I và II (khái niệm thủ đắc/Ereignis, để phân chia giai đoạn thực hiện một quyển sách Aristote/Aristotlesbuch, hay từ hiện tượng luận sang thông diễn luận, hay từ Sein und Zeit đến Zeit und Sein?), như trường hợp triết học phân tích, theo Michael Dummett khai sinh từ khi có khúc quanh ngữ học (Frege là người tiền bối của triết học phân tích, khi chỉ ra sự khác biệt giữa ư nghĩa và tham chiếu), như trường hợp Michel Foucault quá độ từ cấu trúc luận qua hậu cấu trúc luận (Peter Tepe trong Postmoderne/Poststrukturalismus, 1992 phân chia ba giai đoạn Foucault 1, Foucault 2 và Foucault 3, sớm nhất là từ Les mots et les choses đến L'archéologie du savoir, giai đoạn giữa từ Surveiller et punir đến La volonté de savoir (Histoire de la sexualité I) và giai đoạn sau cùng là dự án 2 trở đi của bộ lịch sử tính dục).
Cấu trúc luận với Lévi-Strauss và Lacan đă loại bỏ hay đóng triết học lại, trong khi diễn ngôn của Foucault hay Derrida mở ra những vấn đề như đồng thể/tha thể, nhất thể/phức thể, chủ thể/khách thể, vơi/đầy v.v… Nếu Saussure là khuôn mẫu cho cấu trúc luận, th́ Nietzsche trở lại trong những tác phẩm của Foucault (ảnh hưởng sâu sắc của phân tích quyền lực/Macht-Analytik), Deleuze và Derrida. Bốn khuôn mặt chính hậu cấu trúc thường được nói đến là Lyotard. Derrida, Deleuze, Foucault, tuy nhiên khác biệt cũng sâu sắc. Lyotard và Derrida khởi cuộc hành tŕnh từ hiện tượng luận, trong khi Deleuze và Foucault chống hiện tượng luận, có thể nói họ khởi đi từ duy nghiệm luận.
Hậu cấu trúc luận xét lại những sai sót của cấu trúc luận qua những giả định mới, cũng như phê phán Saussure và Lévi-Strauss. Chẳng hạn tham luận Cấu trúc, dấu chỉ và phép chơi trong diễn ngôn của các khoa học nhân văn Derrida viết cho Hội thảo quốc tế của đại học John Hopkins vào tháng Mười năm 1966, khi nhận xét cấu trúc luận mệnh danh phê phán duy nghiệm luận “song cùng lúc, không một quyển sách hay một nghiên cứu nào của Lévi-Strauss không tỏ ra là một tiểu luận duy nghiệm mà những thông tin khác luôn có thể bổ xuyết hay bài xích”.
Những khuôn mặt lớn của cấu trúc luận như Barthes, Lévi-Strauss, Althusser xuất thân là những người mác-xít, cho nên luận cứ dẫn trên của Sartre vô căn cứ, và một nhà hậu cấu trúc như Foucault vào năm 1968 trên La Quinzaine littéraire đă phản bác; tôi đă ở trong đảng cộng sản Pháp một thời gian vài tháng…và vào lúc đó Sartre đối với chúng tôi được xác định như thành lũy cuối cùng của chủ nghĩa đế quốc tư sản… cho nên thật ngạc nhiên thích thú là thấy câu này ngày nay lại thấy từ ng̣i bút của Sartre mười lăm năm sau. T́nh huống này sau giai đoạn 1968 chỉ để muốn nói đến sự thất bại của cấu trúc luận đă dẫn đến khúc quanh tư tưởng, vào lúc hệ tư tưởng mác-xít rơi vào chỗ bế tắc, đảng CS Pháp tŕ nơa trước biến động lịch sử, sự ra đời của một ḍng ư thức hệ mệnh danh là “tân triết học” với Bernard-Henri Lévy, André Glucksmann, Jean-Marie Benoist, Jean-Paul Dollé, Michel Guérin, Christian Jambet, Guy Lardreau v.v… chịu ảnh hưởng sâu xa hậu cấu trúc luận trong phê phán Marx của Foucault hay Lyotard.
(c̣n nữa)
Đặng Phùng Quân