Đặng Phùng Quân
triết học nào cho
thế kỷ 21
12
Tiếp theo từ các kỳ 1 , kỳ 2 , kỳ 3 , kỳ 4, kỳ 5, kỳ 6, kỳ 7, kỳ 8, , kỳ 9, kỳ 10 , kỳ 11, kỳ 12, kỳ 13, kỳ 14, kỳ 15, kỳ 16, kỳ 17, kỳ 18, kỳ 19, kỳ 20, kỳ 21, kỳ 22, kỳ 23, kỳ 24, kỳ 25, kỳ 26, kỳ 27, kỳ 28, kỳ 29, kỳ 30, kỳ 31, kỳ 32, kỳ 33, kỳ 34, kỳ 35, kỳ 36,
3/ thời quá độ
Tương truyền Heidegger phát biểu trong hội thoại Cerisy là “không có triết học Heidegger” - điều này hàm nghĩa không có một triết học hệ thống như Kant hay Hegel; có thể nói nhà triết học cuối cùng của truyền thống Đức là Nicolai Hartmann với toàn bộ tác phẩm, như đă kể nơi trên, bao gồm mọi lănh vực, từ tri thức luận, siêu h́nh học, hữu thể luận đến đạo đức học, mỹ học. Những nhà triết học khác của thế kỷ XX phần đông chú tâm vào một lănh vực, có thể về mặt hữu thể luận mà không thiết lập đạo đức học, hoặc thiên về siêu h́nh học song không thành tựu tri thức luận, hoặc chuyển hướng qua xă hội học chứng thực thất bại của triết học.
Trong tiết 1, tôi đă chỉ ra Hartmann như cái gạch nối giữa triết học và khoa học khi quan niệm những khoa học tự nhiên không thể đoạn ĺa với nền tảng siêu h́nh, trong khi nỗ lực đi t́m những minh chứng khoa học cho những nguyên lư và đa tầng của hữu/Seinsschichten.
Vào cuối thế kỷ, François Laruelle xác định : tương lai triết học...chắc chắn không ở trong những b́nh luận vô hạn hay những hủy tạo bất tận, cũng không trong thực tiễn ngây thơ ít nhiều mang tính thực chứng, song trong hợp tác chặt chẽ, không đẳng cấp, và mọi tham vọng định lập quy tắc đề xuất, với những khoa học, theo những quan hệ sử dụng loại bỏ tất cả ư chí thống trị.
Nên nhớ Hartmann khởi sự với Platos Logik des Seins (tầm ảnh hưởng có hay không đối với trường phái Tübingen sau này là vấn đề tranh biện khác). Hans Joachim Krämer , đại biểu cho trường phái Tübingen trong tác phẩm (khởi thủy xuất bản qua bản dịch sang tiếng Ư Platone e i fondamenti della metafisica [in lần thứ ba 1989] theo yêu cầu của Giovanni Reale và John R. Catan dịch sang tiếng Anh năm 1990) luận về những cơ sở siêu h́nh học căn cứ trên những học thuyết không viết thành văn/Dottrine non scritte của Platon [tức là những giáo huấn Platon giảng cho môn đệ trong trường Academos và trao đổi, tranh biện những tư tưởng của ông chỉ ở trong ṿng đoàn nhóm này]. Câu hỏi đặt ra là, về mặt lịch sử triết học, nếu không nh́n nhận những chứng cớ triết khảo học/doxography th́ không thể nói đến hai nhân vật Socrate và Pyrrhon là những nhà tư tưởng không hề viết. Krämer nhận xét trường phái Marburg qua Natorp với Học thuyết Ư niệm của Platon/Platons Ideenlehre đă nhận ra chủ đề cơ sở tột cùng trong quyển Sáu và Bẩy của tác phẩm Politeia lư giải học thuyết trên những quy luật tư tưởng định vị chính trên tư tưởng, song không nhận ra những điểm liên đới giữa chủ nghĩa Platon và phê b́nh luận của triết học siêu nghiệm; trong khi trường phái Tübingen nh́n lại quan hệ giữa những cơ sở tột cùng siêu nghiệm của chủ nghĩa Platon, xem xét những diễn ngôn cơ bản trong quyển Sáu Politeia có thể xác định ư hướng đặc thù nhờ vào lư luận những nguyên lư không viết thành văn. Những đặc tính như “Thiện tự tại” khả dĩ có thể biết qua những Ư niệm và gián tiếp qua những sự vật khả giác, lư luận về những phổ quát, khả hữu của một hữu thể luận khách quan chứa một số mặt siêu nghiệm trong Politeia không thể lănh hội hoàn toàn chỉ được sáng tỏ trong lư luận những nguyên lư không viết thành văn; lư luận này minh nhiên xác định Thiện như thể đơn vị thống nhất cơ bản của đo lường. Theo Krämer, quan hệ siêu nghiệm như vậy được đánh dấu đặc sắc trong ư nghĩa “cái ǵ là nguyên lư cho chúng ta nhận thức về mỗi loại sự vật là đo lường đầu tiên của mỗi loại sự vật” và trong ư nghĩa “quả thực, nguyên lư của cái khả tri luôn luôn là đơn vị thống nhất”.
Lư luận những nguyên lư của Platon có thể phân tích từ quan điểm ngữ học, nghĩa là dưới ánh sáng triết học phân tích, như Krämer thực hiện khi chỉ ra là Platon cũng như Aristote và Hegel, đă không như những triết gia khắc kỷ hay những nhà tư tưởng hiện đại sau Frege hướng về luận lư học mệnh đề, song chủ trương luận lư học thuộc từ, lư luận Ư niệm phát triển một hữu thể luận những thuộc từ, tức là những loại, danh từ, hạn, khái niệm. Khi khu biệt về mặt phạm trù những thuộc từ không tham chiếu những cái khác và những thuộc từ tham chiếu những cái khác/tương đối, Platon cũng như Aristote đă theo hướng dẫn của ngôn ngữ. Mặt khác trong đối chiếu học thuyết Platon với triết học hiện đại, Krämer xét những tiếp cận và khác biệt giữa lư luận những nguyên lư với hiện tượng luận Husserl. Ông viết: Husserl phân biệt những khái niệm vật chất (những giống của mọi loại) từ những phạm trù tổng quát, có trương độ phổ quát, và hơn nữa trong những phạm trù này, những phạm trù h́nh thức của ư nghĩa (khái niệm, phán đoán, tam đoạn luận, v.v..) từ những phạm trù của khách thể (khách thể, trạng thái, nhất thể, phức thể, đa thể, quan hệ thuộc về đồng nhất tính, b́nh đẳng và đồng dạng; hữu và vô hữu, toàn bộ-cục bộ v.v..). Ngoài ra, toàn bộ, b́nh đẳng cũng như đồng nhất so với phạm trù nhất thể trong quan hệ phức hợp, trong ngữ cảnh của nó, nhất thể xuất lộ như thể phổ quát và trương độ nhất. Xem như vậy, tương ứng với hệ thống những nguyên lư Platon, Siêu ư niệm và Ư niệm của sự vật, tuy nhiên, Husserl đă không phân biệt những phạm trù của khách thể theo một cách có hệ thống mà xét chúng một cách đẳng lập/paratactic, ngay cả nếu nhất thể và phức thể luôn luôn thuộc về những phạm trù quan trọng nhất. Trong nhiều giai đoạn khác nhau, những phạm trù nhất thể, phức thể và đồng nhất biến đổi trong mô tả hiện tượng luận. Song có thể nói hiện tượng luận là một h́nh thái giảm trừ của học thuyết Platon. Luận về hữu thể luận Heidegger, Krämer khẳng định khái niệm đơn nhất của hữu thể nơi Heidegger không phải đến từ nguồn Aristote mà từ trường phái tân Platon, cũng như khu biệt về mặt hữu thể luận giữa Hữu và hiện thể cũng nẩy mầm từ truyền thống tân Platon (mà lần thứ nhất Porphyre là người giải thích nhất thể theo Platon) nghĩa là trở về lư luận những nguyên lư Platon. Quan niệm Hữu và Vô hữu như hai mặt của ư nghĩa, quan niệm Hữu như Sự-hữu/Ereignis (qua Beiträge zur Philosophie trong thập niên sau Sein und Zeit) trung gian nguyên ủy giữa chủ thể và khách thể, Ngă và cảnh giới, Hữu là phạm vi lợi ích duy nhất mà ta giao ngộ cảnh giới tương ứng với quan niệm ánh sáng trong thiên Politeia giải thích những nguyên lư. Tuy nhiên Krämer cũng nhận xét Heidegger quá xa Platon khi quan niệm Hữu như thời gian, nghĩa là như vận động, chuyển hóa, và khi Hữu về mặt biện chứng như thể Vô hữu, th́ nhất nguyên chuyển sang nhị nguyên và đa nguyên. Không những nhị nguyên của cảm giới và tri giới mà cả nhị nguyên của nguyên lư trên cơ sở vị thế Heidegger nhất định bị loại bỏ, cho nên thực sự, Hũu của Heidegger chỉ so sánh với phạm vi nguyên lư coi như một toàn bộ.
Xét trong toàn cảnh truyền thống gián tiếp của Platon nhờ phát hiện khảo học lịch sử không giả định lư giải đặc thù hiện đại nào về Platon mà trái lại vẫn mở ra và chỉ sửa soạn một phạm vi mới cho những lư giải khả hữu và những viễn cảnh thông diễn học nhắm về mặt lư luận. Điều đó theo Krämer có nghĩa là học thuyết nguyên lư của Platon có thể lư giải trong chiều hướng triết học phân tích, triết học Siêu nghiệm, hiện tượng luận, cấu trúc luận và cả triết học Marx, song không phụ thuộc vào bất kỳ viễn cảnh nào. Krämer khẳng định thật là một sai lầm lớn khi tháp h́nh ảnh Platon mà trường phái Tübingen tái tạo vào triết học của Heidegger cũng như của N. Hartmann.
Luận về truyền thống không thành văn Platon không phải chỉ có duy nhất trường phái Tübingen khai thác; Hans-Georg Gadamer trong tiểu luận Platons ungeschriebene Dialektik 1968 đă đánh giá công tŕnh của những nhà nghiên cứu cổ văn của trường phái này, khởi sự từ Schadewaldt và sau ông, như Konrad Gaiser, Hans J. Krämer giúp nhắc nhở chúng ta sự quan trọng của truyền thống gián tiếp, nh́n ra sự phiến diện của những nhà nghiên cứu Đức về Platon trong những thập niên 1920s, 30s, khoa đại sự kiện những thiên đối thoại có ư hướng giành vào mục đích thông giao, thuộc vào thể văn cổ lệ/protreptikon.
Khác với những người của trường phái Tübingen như Krämer nói đến ở trên (phủ nhận ảnh hưởng của Hartmann và Heidegger trong tạo lại h́nh tượng Platon của trường phái này), Gadamer ngay trong tác phẩm Die Idee des Guten zwischen Plato und Aristoteles,1978 đă đánh giá sự quan trọng của những triết gia như Hegel là người đầu tiên phá vỡ sơ đồ lư giải học thuyết Platon h́nh thành qua Aristote, tân Platon và truyền thống Cơ đốc, chỉ ra ư nghĩa triết học trong những thiên đối thoại “bí truyền”, “biện chứng” của Platon [tức những giáo huấn trong trường Academos], lư giải Aristote của Hartmann đoạn tuyệt với chủ nghĩa duy tâm tân Kant, hành trạng tư tưởng Heidegger vượt qua truyền thống Cơ đốc theo Aristote và tân Kant đă xác định thiết bị khái niệm mới cho tư tưởng Tây phương.
Gadamer trong tiểu luận nói trên phân tích sự khác biệt giữa những thiên đối thoại thành văn của Platon nhằm vào giới công chúng rộng lớn, như chính Platon rơ là cái ǵ được viết ra tất yếu có thể phơi bày cho ngộ nhận và lạm dụng, v́ nó phải tự xoay sở lấy và không có trợ giúp trong việc hoàn tất nhận thức chính đáng mà diễn giả có thể cung cấp trong tranh biện. Quả thực Platon đă phát triển và chủ động h́nh thái văn chương đối thoại với những quy luật riêng cho những ǵ viết ra. Giáo hỗ bằng lời theo một quy luật khác: trước hết phải giành một liên tục có tầm sâu rộng tới những ǵ đă nói ra trước và sau, kể cả không ở trong h́nh thái những bài giảng kế tiếp. Gadamer xác định cốt lơi chủ yếu của học thuyết Platon được thể hiện trong những tranh biện giáo hỗ đang diễn ra lôi cuốn thành viên tham dự suốt ngày và tạo một cộng đồng sinh động giữa họ với nhau. Có một khác biệt lớn giữa nội dung trong giáo hỗ và đối thoại thành văn của Platon, mà tiên khởi theo Gadamer là vấn đề phương pháp luận. Ông dẫn lời Aristote trong Nikomachische Ethik: isως oύn ήmin ge arkteon apo tών ήmiν gnωrimωn, A 2, 1095b 3 [chúng ta phải khởi sự từ cái ǵ chúng ta được biết], Gadamer lư giải khó có thể hỏi xem những đối thoại phải có ưu tiên phương pháp luận mà hoàn cảnh của chúng ta chỉ ra trong truyền thống; tuy nhiên chúng đă có đó và không là sản phẩm của việc tái tạo. Khi đặt vấn đề như vậy, hiển nhiên Gadamer muốn nói đến trường phái Tübingen, tuy ông đánh giá cao, song về mặt thông diễn luận, những đối thoại thành văn có ưu thế hơn học thuyết xây dựng từ truyền thống gián tiếp v́ chúng là một tổng thể diễn ngôn. Gadamer giải thích ưu thế của những đối thoại trong truyền thống có ư nghĩa phương pháp luận quyết định, quan sát thông diễn luận có thể cho thấy hiển nhiên. Cũng như mọi tri thức, tri thức triết học là đồng nhất hóa sự vật như chính nó và có cấu trúc của trí năng. Ông cũng nhận xét tầm quan trọng của nhận thức tư tưởng Platon mà phái Tübingen đưa ra về lư luận “phát triển” trong lư giải truyền thống gián tiếp. Theo lư luận này, khủng hoảng trong học thuyết Ư niệm nổi lên khi ứng dụng ngoài những ư niệm toán học và đạo đức đến những vấn đề phổ quát, khủng hoảng dẫn đến biện chứng phân chia/dihairēsis. Tuy Julius Stenzel (1883-1935) là nhà nghiên cứu Platon đầu tiên khai phá quan điểm này với những đóng góp của Krämer và Gaiser của trường phái Tübingen sau này, Gadamer nhận xét vẫn c̣n là đường dài để đạt tới một lănh hội triết học về sự vật diễn ra trong truyền thống gián tiếp trừ phi khởi đi từ những đối thoại của Platon. Ông cũng không đồng ư với lư giải của Krämer khi cho rằng biểu ngữ ta megista peri ώn opoudazω /những sự vật quan trọng nhất mà tôi quan tâm có ư nghĩa kỹ thuật đặc sắc, v́ trong thiên đối thoại Politikos biểu ngữ này để chỉ những vật vô thể/asώmata nghĩa là những ư niệm. Gadamer chỉ ra cái đầu tiên nhất/ta prώta trong biểu ngữ Platon thường dùng rất hợp với điều Aristote tham chiếu là hai nguyên lư Một/en và Hai bất định/aorostoς duάς. Cho nên trong thiên Politeia những khái niệm đức hạnh hàm ngụ cùng một sự vật, đó là tri thức và tri thức này là một/en nghĩa là Thiện/agaθόn. Cho nên Platon đă sớm nhận thức vấn đề nhất thể và phức thể, mà theo Gadamer học thuyết quan trọng nhất là nhận thức làm sao khái niệm một liên hệ với khái niệm thiện, mặc dù không hàm ngụ trong quan niệm phái tân Platon về nhất thể.
Như đă nói đến ở trên về việc không thể nói đến truyền thống gián tiếp nếu không có những đối thoại thành văn, nên Gadamer dẫn ra những chứng cớ trong những thiên đối thoại quen biết: như trong thiên Protagoras hiển nhiên chỉ ra vấn đề phức thể từ khởi thủy là vấn đề Hai/Nhị thể. Thiên Đại Hippias khai triển lư luận “tham nhập” chỉ ra ư niệm là những hiện hữu đặc thù có cái chung, chẳng hạn con số “chung”, tổng số là một điển h́nh đặc sắc của con số, chẵn hay lẻ, hữu tỷ hay vô tỷ. Thiên Theaitetos chỉ ra nan đề đưa tới song luận, mối quan hệ thực giữa nhất thể và phức thể cho logos cấu trúc hiển nhiên là suy luận về cái phi nghĩa của âm tiết và song luận (hoặc âm tiết là kết tập những chữ hay là một đơn vị bất phân với đặc tính đặc sắc). Trong thiên Phaidon vấn đề Hai/Nhị thể và quan hệ của nó với Một/Nhất thể chỉ ra con số hai là một nan đề xuất hiện trong ngữ cảnh của vấn đề tương đối, hay trong quyển 7 thiên Politeia nêu ra vấn đề “lớn” và “nhỏ” có thể gán cho ngón tay giữa ngón trung và ngón út, là hai hay một? Trong thiên Parmenides luận về lối nào Nhất thể thiết yếu biến hóa thành Phức thể và ngược lại. Vậy đâu là hữu của Phúc thể? Có thể nguyên mẫu này không thuần tuư khi nó chỉ có thể xuất hiện như tha thể , song tha thể trong Phức thể không là ǵ hết, như vậy nó đă là một thực tại:talla toϋ enoς/cái tha/khác của Một/Nhấtthể. Trong Phaidon “linh hồn” luôn luôn đi với “sống” không phải “chết”, “hai” luôn luôn đi với “chẵn” không phải “lẻ” v.v.. Trong thiên Timaios với khả niệm linh hồn được nghĩ như bản chất của sống. Điều đó hàm ngụ ǵ? Trước tiên ám chỉ linh hồn phân biệ với những thể khả thị/visible, nghĩa là bất kiến/invisible. Ở thiên Theaitetos nghĩ thuần tuư và chỉ xét với chính nó cũng nhận thức cấu thành số, cũng như Hữu và vô Hữu, Đồng dạng và Không đồng dạng, Tự kỷ và Khu biệt v.v..
Khi chỉ ra hai nguyên lư Một và Hai bất định của Platon, theo Gadamer đó chính là lư do một trong hai định liệt thứcrơ ràng là bất định thức. Tuy nghĩ và biết của con người có thể không bao giờ thành toàn, song tính kỳ diệu của con đường tư tưởng nơi người luôn lyuôn định hướng về khai mở. Ông kết luận: Truyền thống gián tiếp,nơi những giáo hỗ không thành văn của Platon nhsằm tiết hợp và khẳng định cái giới hạn của tri thức con người, cũng như chỉ ra tại sao khả năng cao nhất của tri thức như vậy phải được định danh không phải là minh trí, nhưng là triết lư.
Đó cũng là một cách đọc Platon. Trong mục từ Alain Badiou {Xem: Từ điển triết học giản yếu kỳ 28 & 29 trên gio-o.com], tôi nói đến tranh biện về đồng thể, phức thể giữa Deleuze và Badiou liên quan đến đọc và hiểu Platon.
(c̣n tiếp)
Đặng Phùng Quân