Đặng Phùng Quân

triết học nào cho thế kỷ 21

19

 

Tiếp theo từ các kỳ 1 , kỳ 2 , kỳ 3 , kỳ 4, kỳ 5, kỳ 6, kỳ 7, kỳ 8, , kỳ 9,   kỳ 10 , kỳ 11,   kỳ 12,   kỳ 13,   kỳ 14,   kỳ 15,   kỳ 16,  kỳ 17,  kỳ 18,  kỳ 19,  kỳ 20,   kỳ 21,  kỳ 22,  kỳ 23,  kỳ 24,   kỳ 25,  kỳ 26,   kỳ 27,   kỳ 28,   kỳ 29,  kỳ 30,  kỳ 31,  kỳ 32,  kỳ 33,  kỳ 34, kỳ 35,  kỳ 36, 

 

3/ thời quá độ (tiếp theo)

Dưới cái nh́n của học giả phương tây, Trang tử có thể là một nhà tư tưởng hoài nghi, hoặc có xu hướng tương đối luận? Khi quan niệm hoài nghi như một xu hướng tư tưởng là trở về thời cổ đại Hy lạp với Pyrrhon (k. 360-275 tr. CN) và Sextus Empiricus (160-210 CN) qua mục tiêu của triết học nhằm kiếm t́m 'sự điềm tĩnh tinh thần/'Αταραξία' đạt được do treo lửng/'Εποχή những phán đoán giáo điều. Chủ nghĩa hoài nghi theo Sextus là khả năng đối lập những biểu diện và ư niệm với nhau cách nào để khi dựa trên phản xứng của những gương mẫu và lư chứng, có thể dẫn tới chỗ treo lửng những phán đoán để đạt tới chỗ vô cảm/điềm tĩnh cho tinh thần. Lúc khởi sự triết lư ngơ hầu quyết định về biểu diện và phán đoán xem cái nào là thực, là giả để đạt tới chỗ yên b́nh, là cũng rơi vào những mâu thuẫn lưỡng lự, và v́ không thể quyết định treo lửng phán đoán, c̣n đối với những người đă treo lửng phán đoán, là giữ được tâm bất động đối với đường lối diễn ra mọi sự. Nhà hoài nghi khởi sự với suy nghĩ tự nhiên về mọi vật như thể diễn ra, chẳng hạn cái tháp trông có vẻ tṛn là tṛn, hành vi xem ra vẻ tốt là tốt, nhưng niềm tin tưởng ấy bị lay động v́ mọi sự trước sau không như một, chẳng hạn cũng tháp đó khi nh́n gần thấy vuông, cũng hành vi ấy lại đáng trách đối với người khác. Rốt cuộc ông ta thất vọng về sự thực và không nh́n nhận thức mọi sự như chúng xuất hiện. Tâm bất động đạt được qua treo lửng những phê phán độc đoán về sự việc diễn ra, phương pháp mà Sextus dùng để tạo ra treo lửng là dựa trên những mâu thuẫn trong kinh nghiệm khiến ta ngờ vực, hệ thống hoá quá tŕnh này bằng cách tách riêng những bộ 'chuyển vận/τρόποι' khác nhau nhằm sinh ra những lư chứng và phản mẫu xung đột đặt để tiếp cận bất kỳ chân lư nào ngoài biểu diện thành vấn đề. Cho nên khi nói nhà hoài nghi không có niềm tin, điều đó chỉ có nghĩa là ông không có những tin tưởng độc đoán. Sextus cũng nói , khi chúng ta tôn trọng biểu diện, chúng ta sống phù hợp với những quy luật của đời sống thường, một cách không giáo điều. Nhà hoài nghi vẫn biết đường lối sự vật hiện ra với ông ta, chẳng hạn cái này như thể là cái bàn, song ông không vội quyết đoán/προπετές sự vật thực sự là như vậy.

Ở những ngụ ngôn của Trang tử, cũng có những vấn đề tương tự đặt ra, cũng những lư chứng  tương tự. Trong chương hai Tề vật luận:

Khiết Khuyết hỏi Vương Nghê: Thầy [ xem trong chương 12 nói rơ: thầy của vua Nghiêu là Hứa Do, thầy của Hứa Do là Khiết Khuyết, thầy của Khiết Khuyết là Vương Nghê] biết chỗ cùng phải của mọi vật không/Tử tri vật chi sở đồng thị hồ?

Đáp: Ta biết đâu cái đó/Ngô ô hồ tri chi.

- Thầy biết cái mà thầy không biết không?

- Ta biết đâu cái đó.

- Vậy th́ mọi vật, cũng không biết ǵ cả hay sao ?

- Ta biết đâu cái đó. Tuy vậy, hăy thử nói coi sao. Biết đâu cái ta gọi là biết lại chẳng phải là cái ta không biết? Biết đâu cái ta gọi là không biết lại chẳng phải là cái biết sao ? Vả lại ta đă từng thử hỏi ngươi : Người nằm chỗ ẩm thấp th́ đau lưng, chết một bên thân ḿnh, loài cá chạch [thu] có sao đâu ? Người ở trên cây run rẩy sợ hăi : loài khỉ, vượn có thế đâu ? Ba loài ấy, ai biết chỗ ở nào là chính ? Người ăn thịt, cỗ bàn, hươu nai ăn cỏ, rết cho ăn rắn là ngon, chim vọ, cú nghiện ăn chuột. Bốn loài ấy, ai biết vị ăn nào là chính ? Vượn lấy khỉ làm con nái, hươu giao với nai, chạch chơi với cá. Người ta cho Mao Tường, Lệ Cơ là đẹp, cá thấy họ th́ lặn sâu, chim thấy họ th́ bay cao, hươu nai thấy th́ cắm đầu chạy xa. Bốn loài ấy, ai biết sắc đẹp nào là chính trên đời ? Tự ta coi nó, th́ đầu mối của nhân nghĩa, đường lối của phải trái rối loạn lung tung, ta biết đâu mà phân biệt được nó/tự ngă quan chi, nhân nghĩa chi đoan, thị phi chi đồ, phiền nhiên hào loạn, ngô ô năng tri kỳ biện.

Khiếu Khuyết nói : Thầy không biết lợi hại, th́ bậc chí nhân cũng không biết lợi hại sao?

Vương Nghê nói : Chí nhân là bậc thần : chầm lớn cháy mà không thể làm cho nóng, sông Hà sông Hán đóng băng mà không thể làm cho lạnh ; sét đánh vỡ núi, gió lộng biển cả cũng không làm cho sợ. Người như thế th́ ngự khí mây, cưỡi mặt trời mặt trăng mà rong chơi ngoài bốn bể, chết sống không làm cho họ điên đảo, biến đổi, phương chi là đầu mối lợi, hại/nhược nhiên giả, thừa vân khí, kỵ nhật nguyệt, nhi du hồ tứ hải chi ngoại, tử sinh vô biến ư kỷ, nhi huống lợi hại chi đoan hồ !

Tề vật luận như đă nói ở trên là thiên sách công chính nhất của Trang tử, phản ảnh quan niệm hoài nghi của ông khi đưa ra tương phản giữa phán đoán của người với phán đoán của loài vật. Trong phần sau, Trang tử lại đem sự khu biệt giữa cá nhân ta với tha nhân, giữa kẻ chiêm bao và người thức, như  phép chuyển vận trong lư chứng của Sextus dẫn trên :

Giả như ta với ngươi cùng tranh biện, ngươi thắng được ta, ta không thắng được ngươi, vậy ngươi đă hẳn là phải, mà ta đă hẳn là trái chăng ? Nếu ta thắng được ngươi, ngươi không thắng được ta, vậy ta đă hẳn là phải, mà ngươi đă hẳn là trái chăng ? Hay là, khi th́ phải, khi th́ trái sao ? Hay là cả hai chúng ta cùng phải cả, cùng trái cả sao ? Ta với ngươi không thể biết được nhau, th́ người người đành phải chịu cái tối tăm đó, mà ta nhờ ai quyết định việc ấy ? Nhờ kẻ đồng với ngươi quyết định điều đó, nó đă đồng với ngươi th́ làm sao quyết định được/sử đồng hồ ngược giả chính chi, kư dữ nhược đồng hỉ, ô năng chính chi ? Nhờ kẻ đồng với ta quyết định điều đó, nó đă đồng với ta rồi th́ làm sao quyết định được ? Nhờ kẻ khác với ta cùng ngươi quyết định điều đó, nó đă khác với ta cùng ngươi, th́ làm sao quyết định việc ấy ? Nhờ kẻ đồng với ta cùng ngươi quyết định, nó đă đồng với ta cùng ngươi, quyết định được sao ? Vậy th́ ta cùng ngươi, cùng với kẻ đó đều không thể biết được nhau, sao phải chờ đợi người đó làm ǵ ?

Lư chứng chỉ có thể nhờ đến một kẻ phán quyết hay tiêu chuẩn nào đó, song chọn kẻ phán quyết hay tiêu chuẩn lại phụ thuộc vào quan điểm dẫn khởi, nghĩa là vẫn cần giải quyết. Nhiều học giả như Waley, Watson, Creel cho quan niệm 'bất trắc' nơi Trang tử cũng như Sextus là phương tiện để tới cứu cánh của tâm bất động/ataraxia. Song, nếu mục đích của Trang tử là đạt tới tâm bất động, đó chính là 'đạo' như ở những ngụ ngôn chuyện Bào Đinh mổ trâu, chuyện người lội nước dẫn trên. Nếu ở nơi nhà hoài nghi Hy lạp, Sextus ngờ khả năng con người có thể phân biêät chân với giả, th́ Trang tử ngờ khả năng con người đạt được cái đạo theo tự nhiên nơi con người. Trong chương 19 Hiểu sống chuyện Phó Mộc Khánh nổi tiếng làm cái giá chuông, tưởng như quỷ thần làm ra ; vua nước Lỗ trông thấy hỏi : Ngươi làm bằng thuật ǵ ?

Khánh thưa : Tôi chỉ là kẻ thợ, nào có thuật ǵ ? Tuy vậy có một cách : khi tôi sắp sửa làm cái giá, phải chay tịnh bằng sự tĩnh tâm. Chay tịnh ba ngày mà khôn dám nghĩ đến khen, thưởng, tước, lộc. Chay tịnh năm ngày mà không nghĩ đến khen, chê, khéo, vụng. Và khi chay tịnh đến bẩy ngày th́ im phắc, quên cả có chân tay, thân thể. Vào lúc ấy, vua và triều đ́nh cũng không hiện hữu với tôi nữa. Tập trung vào xảo năng và mọi sự bên ngoài tan biến hết. Bấy giờ mới đi vào núi rừng xem bản tính trời của cây cối. Khi t́m ra đuợc h́nh hài tuyệt bậc rồi, bấy giờ mới thành, thấy cái giá rồi, mới bắt tay vào làm, không thế th́ thôi. Đường lối mà tôi làm ấy là lấy trời hợp với trời.

Paul Kjellberg với luận án Zhuangzi and Skepticism 1993 và những tiểu luận Skepticism, Truth and the Good Life: A Comparison of Zhuangzi and Sextus Empiricus 1994, Sextus Empiricus, Zhuangzi and Xunzi on Why Be Skeptical’ 1996, Dao and Skepticism 2007 nhận xét quan niệm hoài nghi của Trang tử chủ yếu là ngờ khả năng của ngôn ngữ có thể giúp con người đạt được kỹ năng v́ nhiều lư do:

'Lời c̣n quá thô để nắm bắt những khu biệt tế vi hay chứa nhận những khả năng hàm hồ' và v́ đường lối tốt nhất để hành động trong một t́nh huống thường dựa vào những khả năng và khu biệt như vậy nên 'Trang tử ngờ sự hữu hiệu của ngôn ngữ trong thông giao cái quan trọng về sống ra làm sao' như câu chuyện người đóng xe Biển trả lời Hoàn công [đă dẫn trong kỳ 17] 'có ngón nghề mà không thể diễn tả bằng lời', Kjellberg nêu một nhận xét khác là với Trang tử 'ngôn ngữ không thích đáng không chỉ trong thông giao sống ra sao mà trước hết trong việc h́nh dung ra nó nữa ; nếu người ta dựa vào ngôn ngữ trong những quyết định, thế nào họ cũng sống vụng về.'

Theo Kjellberg, tuy Trang hoài nghi 'tri thức thuần lư', dựa vào ngôn ngữ song ông lại tuyệt đối tin vào 'kiến thức tự nhiên' dựa vào trực quan, mà Trang tử gọi là thiên cơ/máy trời như trong ngụ ngôn ở chương Thu thuỷ :

Qùy bảo rết : Ta dùng một chân tập tễnh mà đi, ngươi không bằng rồi. Nay một ḿnh ngươi mà sai khiến ba nhiêu chân, làm ra làm sao ? - Rết nói : Không thế rồi ! Ngươi không thấy kẻ nhổ sao ? Phun ra giọt lớn bằng hạt trai, hạt nhỏ, bằng hạt sương. Lộn xộn rơi xuống, không thể kể xiết. Nay ta động đến máy trời của ta, không biết là sao lại thế nữa ! [bản dịch của Nhượng Tống].

Làm được những việc, như đi đứng, không hiểu tại sao như thế, không thể giải thích ; lư do mà người ta không thể hiểu, theo như Trang tử,là v́ tin là đă biết mà thực ra chỉ v́ từ khước không biết mở mắt nh́n. Trang cũng như Sextus dùng những lư chứng hoài nghi không phải để bác bỏ nhận thức, song để gây cho người ta một cảm giác về không chắc.

Lisa Raphals dẫn chương Tề vật luận để so sánh một đoạn nổi tiếng trong Trang tử với thiên đối thoại Theaetetus của Platon:

Tích giả Trang Chu mộng vi hồ điệp, hủ hủ nhiên hồ điệp dă, tự dụ thích chí dữ bất tri Chu dă. Nga nhiên giác, tắc cừ cừ nhiên Chu dă.Bất tri Chu chi mộng vi hồ điệp dư, hồ điệp chi mộng vi Chu dư/Xưa Trang Chu chiêm bao thấy ḿnh là bướm, phấp phới như thể là bướm, tự thấy thích chí chăng, không c̣n biết đến chu nữa. Chợt tỉnh giấc, lại thấy ḿnh là Chu. Không biết Chu chiêm bao làm bướm? hay bướm chiêm bao là Chu? [theo bản dịch của Ngô Quang Minh/Wu Kuang Ming, The Butterfly as Companion, Meditations on the First Three Chapters of the Chuang Tzu 1990, Ngô chú giải theo Graham, yü có nghĩa như 'showing', mặc dầu c̣n nghĩa khác là 'happy'].

Trong đối thoại của Platon nói trên, chàng thanh niên Theaetetus hỏi Socrate :

(thực sự chàng không biết) làm sao tranh biện vấn đề nêu ra là một người chiêm bao [tin điều ǵ là sai]...khi tưởng tượng có cánh và bay trong giấc ngủ (Theaetetus 158b).

Câu hỏi ấy có thể t́m ra đáp án nơi Trang tử :

Phương kỳ mộng dă, bất tri kỳ mộng dă. Mộng chi trung, hựu chiêm kỳ mộng yên, giác nhi hậu tri kỳ mộng dă/Đương lúc chiêm bao, không biết ḿnh chiêm bao. Trong chiêm bao, lại đoán coi cái chiêm bao của ḿnh, thức rồi mới biết ḿnh đă ở trong chiêm bao. (Tề vật luận)

Socrate th́ trả lời chàng thanh niên như sau :

Không khó ǵ để t́m ra chuyện tranh biện, ngay cả tranh biện xem đó là sống thực hay chiêm bao. Thật vậy, ta có thể nói rằng, quăng thời gian thức và ngủ bằng nhau, và ở trong mỗi quăng, hồn cho rằng những tin tưởng ở lúc đó chắc chắn là thực, như vậy th́ với thời khoảng bằng nhau [cho mỗi nửa đời sống], chúng ta khẳng định thực tại của thế giới này, và của thế giới kia. Chúng ta có những xác quyết với niềm tin đồng đều cho cả hai.(Theaetetus 158d)

Raphals muốn chỉ ra là cả hai ví dụ trên về chiêm bao nhằm đặt vấn đề nghi hoặc khả năng nhận thức, tranh luận ban tính của tri thức, ngôn ngữ, giải thích, tri giác và phán đoán. Theo bà, Tề vật luận là một thiên tri thức học quan trọng thời Chiến quốc, và Theaetetus là thiên đối thoại duy nhất của Platon tranh luận về tri thức/epistēme; Trang tử không đề ra lư luận của ông về tri thức, cũng như Socrate không có một định nghĩa về tri thức. Cả hai sử dụng những phương pháp hoài nghi để khai phá những vấn đề tri thức.

Cho nên không ngạc nhiên khi thấy dưới góc nh́n hiện đại, những học giả như Chad Hansen hay David B. Wong đề ra lư giải Trang tử là một lư luận của chủ nghĩa tương đối.

Hansen trong tiểu luận 'A Tao of Tao in Chuang-tzu' (in trong Experimental Essays on Chuang-tzu, 1983) phân tích hai quan niệm liên hệ song phân biệt của Trang tử về nhận thức: một là chúng ta không bao giờ nh́n thế giới 'nguyên thô' mà dưới một góc cạnh nào đó, cho nên không bao giờ có nhận thức về sự vật như chính nó, mà chỉ qua một niệm thức nhất định qua ngôn ngữ (ở đây Hansen ám chỉ từ dao) - đó là một h́nh thức tương đối chủ nghĩa theo ư nghĩa nhận thức luôn luôn tương đối theo một khung cảnh tham chiếu ; hai là những lối nh́n khác nhau về thế giới, những niệm thức khác nhau trong những ngôn ngữ khác nhau thường bất dung hợp nhau, những khu biệt này không thể giải quyết v́ mỗi cá nhân, hay mỗi nhóm có một cái nh́n theo họ là đúng về sự vật. Theo Hansen, không chỉ có một Đạo mà nhiều đạo  và mọi đạo đều ngang bằng nhau : 'Đạo của Trang tử là một đối tượng ngữ học, hơn là siêu h́nh học (tương đương với diễn ngôn mệnh lệnh) ; học thuyết Trang có xu hướng tương đối hơn tuyệt đối, có nghĩa là theo Trang có nhiều đạo/đường lối'. Lấy chuyện Bào Đinh mổ trâu tuyệt kỹ, Hansen lư giải đă hoàn thiện 'một đường lối/đạo đặc thù đến trở thành tự phát hay bản nhiên thứ hai, không phải thần thức nào cần để hợp với Đạo và biến thành một người mổ trâu (vũ công, người làm vườn, tổng thống, nhà luận lư, tay đấu quyền, phi công Star Wars) hoàn hảo'. Tuy nhiên, Hansen cũng đồng ư với những học giả khác về chủ nghĩa hoài nghi nơi Trang tử 'xây dựng trên quan điểm quy ước và chức năng  của ngôn ngữ/yan'.

David B. Wong trong Moral Relativity 1984 lư giải Trang tử như một dự tŕnh về chủ nghĩa tương đối đạo đức, đưa ra khái niệm từ/ci để chỉ 'trạng thái ư thức ở đó biên giới giữa bản ngă và tha nhân không c̣n nữa...Từ bi gợi lên sự giúp đỡ tha nhân một cách không suy tính trước, khi họ ở trong cảnh khốn cùng, chứ không phải giúp đỡ v́ đó là bổn phận đạo đức'. Wong cũng nêu ra quan điểm phê phán chứng thực đạo đức thuần lư của Trang tử, và tính tương đối đạo đức giúp ta nhận ra giá trị b́nh đẳng của mọi cá nhân. Philip J. Ivanhoe trong tiểu luận 'Was Zhuangzi a Relativist' không đồng ư với Wong về khái niệm từ trong tư tưởng của Trang, và cho rằng chính là của Nho giáo, đặc biệt nơi Mạnh tử, mà ở sách Trang tử chỉ có ư nghĩa tiêu cực. Tuy nhiên, quan niệm tính tương đối đạo dức mà Wong lư giải Trang tử không hẳn trong ư nghĩa của triết học phương tây (hiểu theo nghĩa ư niệm thiện/ác thay đổi theo thời đại và xă hội); điểm tương đồng giữa Wong và Billeter là Trang tử chỉ ra con đường khác trong triết học Trung hoa, đề cao vị thế  'nhân chủ' nơi những cá nhân tự do, b́nh đẳng và có trách nhiệm (như tiêu chuẩn trong đạo đức Kant).

Đọc Trang tử là mối quan hệ triết học Đông/Tây đă khởi sự từ sớm ở thế kỷ 20. Trong phần 1/ nh́n lại 100 năm triết học, tôi đă nói đến M. Buber tuyển chọn dịch Thuyết và ngụ ngôn của Trang tử từ năm 1910. Otto Pöggeler và Graham Parkes đều kể dật sự trong hội thảo Brennen về bản chất chân lư của Heidegger, ông đă đọc câu chuyện cái vui của cá/Die Freude der Fische cuối chương 17 Thu thủy :

Trang tử và Huệ tử dạo chơi ở trên đập Hào. Trang tử nói :

Ḱa đàn cá lượn lờ bơi chơi ! Đàn cá vui sướng làm sao !

Huệ tử nói :

Bác không phải cá, sao bác biết cá vui sướng chứ ?

Trang tử đáp :

Bác không phải tôi, sao bác biết tôi không biết nỗi vui sướng của cá ?

Huệ tử đáp :

Tôi không phải bác, không biết bác đă đành. Nhưng bác không phải cá, bác hẳn là không biết cái vui sướng của cá.

Trang tử đáp :

Xin nói lại từ khởi điểm nhé ! Bác hỏi : Sao bác biết cái vui sướng của cá ? thế là bác đă biết tôi biết mà hỏi tôi. Tôi th́ biết nỗi vui của cá ở nỗi vui của tôi ngay từ ở trên hào.

Cái then chốt của câu chuyện là Trang tử hỏi Huệ tử không phải là Trang tử, làm sao ông (Huệ tử) biết ông (Trang tử) không biết nỗi vui của cá ? Kết này nói ta biết nỗi vui của cá từ nỗi vui của ta đi dạo trên hào. Mệnh đề này giải quyết mọi phản tư không thích đáng về vấn đề đặt người này vào vị thế của người kia.

Pöggeler từ câu chuyện trên liên hệ đến vấn đề ở-với/tương hữu (Mitsein) trong triết học Heidegger, để hiểu thích đáng Sein und Zeit: Về tương hữu, trong đó chúng ta đồng thuận với tha nhân  trong 'lĩnh hội về sự vụ' theo một đường lối sao không khu biệt giữa anh và tôi. Khi Heidegger nói đến người ta/das Man những phân tích của ông khởi đi từ những tỷ dụ vong thân trong công việc chung, không xét đến cộng đồng do 'bản nhiên' chủng tộc mà ra. Cách thế 'không thích đáng' của tương hữu bị 'mối quan tâm dự tưởng trước đến tha nhân/vorausspringende Fürsorge' vượt qua, trong đó hiện thể/Dasein  giúp hiện thể khác khi cần cứu, ngơ hầu giải tỏa t́m được con đường ra cho chính ḿnh. Trong ngụ ngôn Trang tử dẫn trên, hàm ngụ mói tương đồng phổ quát kết hợp mọi vật trong tự nhiên- như giữa người và cá, ở Sein und Zeit cũng chỉ ra tự nhiên bao dung ta 'theo ư nghĩa quan niệm lăng mạn về tự nhiên', không phải 'tự nhiên như một vật' vói trong tay, như thứ tự nhiên mà chúng ta chế ngự về mặt khoa học kỹ thuật. Trong bài giảng mùa đông 1929-30 (Die Grundbegriffe der Metaphysik. Welt-Endlichkeit- Einsamkeit/Những khái niệm cơ bản của siêu h́nh học. Thế giới-hữu hạn tính-cô đơn tính GA 29-30) trong phần Hai, chương Hai (sách xuất bản), Heidegger chỉ ra con người phân cách với sinh vật khác qua một vực sâu, ở Beiträge zur Philosophie (Vom Ereignis)/Khái luận triết học (từ Sự-hữu) GA 65 tự nhiên chỉ gặp trong 'cộng hưởng' từ âm vọng noi chúng ta. Theo Pöggeler, Heidegger không nh́n con người như được liên hệ qua tương đồng phổ quát  với mọi sự hiện hữu, ôngh cũng không kêu gọi trở về trầm ḿnh nguyên sơ với tự nhiên.

Pöggeler cũng đề cập bài giảng 'Quan niệm Tự nhiên trong Vật lư học hiện đại' của Werner Heisenberg kể lại chuyện đào giếng trong chương Thiên, địaTrang tử :Tử Cống ở Sở về Tấn qua miền Hán âm, thấy một ông già làm vườn đang đào hầm làm giếng ra sức quần quật mà thấy công việc làm rất chậm.

Tử Cống nói :

Hiện nay có món đồ dùng, một ngày thấm hàng trăm mảnh ruộng, dùng sức rất ít mà thấy công nhiều, cụ không muốn thế sao ?

Lăo làm vườn ngẩng lên nh́n thầy mà rằng :

- Làm ra thế nào ?

- Đục gỗ làm ra máy, phía sau nặng, phía trước nhẹ ; múc nước như là vụng, nhưng mau lên như xối. Tên nó là cái gầu.

Lăo làm vườn hầm hầm đổi nét mặt, cười nhạt mà rằng :

- Ta nghe thầy ta dạy thế này : 'Kẻ có đồ dùng máy móc, tất có việc làm máy móc. Kẻ có việc làm máy móc, tất có tấm ḷng máy móc. Tấm ḷng máy móc để trong bụng th́ thuần, trắng không đủ. Thuần trắng không đủ th́ thần tính bất định ; hễ thần tính bất định là hạng mà đạo không chở'. Ta không phải không biết, xấu hổ mà không làm đấy thôi !

Nếu trong ngụ ngôn, người làm vườn từ khước máy móc v́ sợ đắc thủ một tinh thần máy móc, mất sự thống nhất hài hoà với Đạo th́ chính Heisenberg cũng nghĩ hiểm họa hiện nay là việc trong thế giới khoa học-kỹ thuật, chúng ta vẫn chỉ gặp chúng ta, và chỉ gặp mọi sự vật theo đường lối chúng ta đă sáp nhập chúng vào trong thế giới chúng ta dựng ra. Heidegger đă chỉnh luận án này trong tiểu luận 'Vấn đề kỹ thuật' trong lập luận  

'cái mà chúng ta gặp trong thế giới kỹ thuật rơ ràng không c̣n là chúng ta, cũng không phải cái thử thách đề ra từ thế giới kỹ thuật. Gặp gỡ thử thách này ắt dẫn tới chấp nhận sự dụng mọi vật bằng kỹ thuật trong giới hạn của nó như một nhiệm vụ lịch sử và như một khả năng . Chúng ta không giản dị trở lại với tự nhiên chưa bị tiếp chạm, v́ ngay năng lượng nguyên tử cũng là cái ǵ thuộc tự nhiên : nếu hoạt động của nó dưới mặt trời ngừng lại dù chỉ trong thời gian ngắn, mọi đời sống trên trái đất này cũng bị hủy diệt.

Trong tiểu luận của Parkes 'Tư tưởng trên Đường : Sein und Zeit qua Lăo-Trang',  qua lời của Petzet, Heidegger lư giải chuyện vui sướng của cá qua đối đáp giữa Trang tử và Huệ tử đă chỉ ra vị thế của Heidegger về bản chất của chân lư là tự do, SuZ là con đường/đạo, không phải nơi trú ẩn - như Heidegger khẳng định trong giảng khoá 1936 về Schelling.

Phụ lục : Trở lại với Billeter : nhà hán học tiến hành như thế nào khi giải mă một bản văn hoa cổ ? Để có một ư niệm về điều này, ông dẫn một đoạn ngắn trong chương Dưỡng sinh chủ :

Trạch trĩ thập bộ nhất trác bách bộ nhất ẩm bất kỳ súc hồ phàn trung thần tuy vương (vượng) bất thiện dă

Và kể ra những bản dịch khác nhau :

 The swamp pheasant has to walk ten paces for one peck and a hundred paces for one drink, but it doesn't want to be kept in a cage, Though youy treat it as a king, its spirit won't be content/Chim trĩ ở trong đầm đi mười bước mổ một lần và đi trăm bước uống một lần, nhưng không muốn bị giữ trong lồng. Dầu đối xử như vua, tinh thần đâu có măn nguyện (Burton Watson, The Complete Work of Chuang Tzu 1968).

Le faisan de la lande becquette tous les dix pas; il boit tous les cent pas; il ne veut pas sa nourriture au prix de sa mise en cage. Ainsi, il n'envie pas le bonheur d'un roi/Chim trĩ ở truông mổ mỗi mười bước, uống mỗi trăm bước; không muốn được nuôi phải trả  bằng nhốt trong lồng. Nên không muốn hạnh phúc của một ông vua (Liou Ka-hway, Œuvre complète de Tchouang-tseu 1980).

The pheasant of the woodland walks ten paces for one peck, a hundred paces for one drink, but has no urge to be looked after in a cage. One's daemon does not find it good even to be a king/Trĩ rừng đi muời bước mổ một lần, đi trăm bước một lần uống, như không nài được chăm sóc ở trong lồng. Thần của người ta cũng không thấy thích làm vua. (A.C. Graham, Inner Chapters 1981).                                                                                                                                                                                                 Billeter phê b́nh và nêu ra những khuyết điểm của mỗi bản dịch: chẳng hạn Watson dịch phóng từ 'chan/thiện', ‘être bon’ thành 'être content', tiếng hoa cổ không có câu xen, tại sao lại nói 'chen pou chan yé/son esprit n'est pas content' thay v́ giản dị là 'pou chan yé/il n'est pas content'; Liou đă bỏ từ 'chen/l'esprit' và khó thể tưởng tượng 'chim trĩ muốn hạnh phúc của ông vua’; Graham đă hoán chuyển câu 'chen souei wang, pou chan yé/one'daemon/even to be a king' thành 'one'daemon does not find it good to be a king'.

Tuy nhiên, điểm chung của ba bản dịch trên là dịch từ 'wáng/vua' và Billeter thảo luận đọc là từ 'wáng/resplendir, briller, prospérer' và đề nghị bản dịch chung cuộc như sau:

Le faisan des marais doit faire dix pas pour trouver à picoter et cent pas pour trouver à boire, mais il ne voudrait pour rien au monde qu'on prit soin de lui dans un cage [mais il ne voudrait pour rien au monde être nourri dans un cage]. Son activité est à son comble [son esprit a toute sa vigueur], mais il ne tient nullement cela pour un bien [mais il ne trouve pas cela bon].

Để tham khảo, tôi dẫn hai bản dịch tiếng Việt để đối chiếu, một của học giả Nhượng Tống (1944):

Con trĩ ở chầm, mười bước một lần mổ, trăm bước một lần uống, không có mong nuôi ở trong lồng. Vẻ tuy khỏe, chả thích vậy !

một của học giả Nguyễn Duy Cần (196?):

Con trĩ ở trong chầm, mười bước đi, một lần mổ, trăm bước đi, một lần uống, nhưng nào có mong được nuôi dưỡng ở trong lồng. Thần thái tuy khỏe, nhưng ai đâu có ưa việc ấy. [Trong nguyên tác, giáo sư Cần vẫn để chữ 'vương' song chú đọc là 'vượng', có bộ 'nhật' ở một bên ;  Billeter cũng dùng từ 'wáng/vượng' và giải thích : Le second wàng dérive du premier sur le plan graphique par l'adjonction de l'élément 'soleil'/ Từ wàng/vượng' thứ hai này rút ra từ thứ nhất trên b́nh diện văn tự pháp bằng cách thêm bộ 'nhật'. Không rơ Billeter có từng đọc hai bản dịch tiếng Việt có trước của hai học giả Việt nam bao giờ chưa ?]

 (c̣n tiếp) 

Đặng Phùng Quân