Đặng Phùng Quân
triết học nào cho thế kỷ 21
Tiếp theo từ các kỳ 1 , kỳ 2 , kỳ 3 , kỳ 4, kỳ 5, kỳ 6, kỳ 7, kỳ 8, , kỳ 9, kỳ 10 , kỳ 11, kỳ 12, kỳ 13,
3/ thời quá độ
Địa vị của Platon trong triết học quan trọng đến độ một nhà triết học thế giá như Whitehead cho là đọc triết học hiện đại chỉ như những chú giải ở dưới mỗi trang sách của Platon. Nhiều triết gia khác cũng đề xuất một Platon hiện đại, như xem tư tưởng Platon thuộc phái tân Kant (Natorp), là môn đệ của Whitehead, là nhà Dân chủ Xă hội, là người tin theo St Thomas (Raphael Demos) v.v… hay trong tự truyện của Gadamer trong thời gian theo học tại Marburg, Paul Friedländer (một nhà nghiên cứu Platon) đă dạy ông đọc Platon như một văn gia, hơn là một triết gia.
Thật sự khi đọc Platon, về mặt văn học người ta có thể thấy Platon hiện diện ở mọi đối thoại, nếu lấy nguyên lư của Bakhtin để phân tích, có thể nói ngôn từ trong tác phẩm của Platon là đa điệu v́ Platon không những là Socrate, hay người khách đến từ trường phái Elée, c̣n là Glaucon, Adimante, Calliclès, Eryximaque, Eutyphron, Thrasymaque, hoặc đóng cả vai tṛ nhà ngụy biện/hoài nghi như Gorgias, Protagoras, hay chính Parménide v.v…
Trở về với Platon như lối nói của François Châtelet, hiểu như ta thường nói Platon ngày nay (như Kant, như Nietzsche, như Hegel ngày nay) bày ra hai lợi ích: về mặt phổ hệ, trong phương cách tác phẩm của ông đă đề ra cơ sở nền tảng cho văn hóa tây phương, với tất cả trong sáng và nghiêm xác của lănh vực khái niệm, về mặt phê phán, do sự kiện là có thể những tính phi lư mà ông bài bác, những trở ngại gia bội thường xuyên dựng lên chống lại sự phát triển toàn diện của Lư trí vẫn c̣n là những cái đi ngược lại tiến bộ của con người, hoặc làm lệch hướng tiến bộ tiến đến cứu cánh của nó. Cho nên khi đọc Platon, không phải là trở về quá khứ nhưng chính là nh́n về phía trước, cùng với vị khai phá ra trường Academos , về một chân trời mà ông đă làm lộ ra bóng tối và ánh sáng. Nói cụ thể hơn, Platon đă khai triển luận lư của Lư trí và văn minh công nghiệp của con người ngày nay đă tổ chức ra thực tiễn cho luận lư này.
Gilles Deleuze, nhà triết học Pháp nổi tiếng trong nửa sau thế kỷ 20, trong giáo tŕnh cũng như những tác phẩm đă viết về Leibniz, Spinoza, Kant, Bergson và không có chuyên đề nào về Platon, song Badiou khi đọc Deleuze đă mệnh danh ông là một người theo Platon bất như ư/un platonicien involontaire. Tại sao vậy? Triết học nội tại của Deleuze trong ư hướng chuyển ngược chủ nghĩa Platon, theo Badiou là chuyển hóa của một chủ nghĩa Platon không tự nguyện, cho nên phải hiểu quan hệ Deleuze/Platon theo nghĩa đảo ngược.
Deleuze không viết chuyên đề nào về Platon, song đă luận về học thuyết Platon trong ba tác phẩm chính của ông là Spinoza et le problème de l'expression 1968, Logique du sens 1969, Différence et répétition 1969. Trong chương Simulacre et philosophie antique/Ảo tượng và triết học cổ đại là phần phụ lục của Logique du sens, Deleuze nói đến vấn đề « lật đổ chủ nghĩa Platon » bắt nguồn từ Nietzsche, xem đó là nhiệm vụ của triết học tương lai. Khi Badiou đưa ra luận cứ Deleuze là một người theo Platon bất như ư, ư ông muốn nói triết học tự tại của Deleuze vẫn c̣n vướng mắc với “siêu việt theo Platon về Ư niệm”, mặc dầu hành trạng tư tưởng Deleuze dàn trải “phương pháp” mà Deleuze sử dụng chỉ ra “không có khu biệt ư nghĩa” nào giữa cái về bề mặt là một khảo cứu “giáo điều” chẳng hạn trong Différence et Répétition, rút ra từ lịch sử triết học, như Spinoza et le Problème de l'expression, giao ngôn với một nhà tư tưởng lớn hiện đại như Foucault, một tổng quan về một nghệ thuật đặc thù (điện ảnh) như L'Image-mouvement và L'Image-temps hay suy niệm về một nhà văn, như Proust et les Signes, luôn luôn chỉ ra “những trường hợp về khái niệm”, mặc dầu có thể không trung thành với đề cương theo Nietzsche mà Deleuze không ngừng nhắc nhở là nhiệm vụ của triết học hiện đại là “lật đổ chủ nghĩa Platon”. Deleuze liệu vẫn thuộc về chủ nghĩa duy vật hiện đại, như đă có người xếp loại với Badiou (Fabien Tarby)? Hay triết học Deleuze vẫn nối kết/liệt cử chung quanh một siêu h́nh học của Nhất thể? Trong tác phẩm viết về Deleuze, Badiou có để một tiểu đề là “La clameur de l'Être”, lấy lại từ một diễn ngôn của Deleuze trong Différence et Répétition : từ Parménide đến Heidegger, cùng một tiếng nói được lập lại...một tiếng nói duy nhất tạo sự ầm ĩ của hữu/de Parménide à Heidegger, c'est la même voix qui est reprise...Une seule voix fait la clameur de l'être. Triết học như Deleuze viết ở nơi khác (trong Logique du sens) nhập vào hữu thể luận. Khi nêu ra những vấn đề như vậy, Badiou đă gợi ra mối quan hệ giữa Deleuze với Heidegger, và những nhà triết học cổ đại, kể cả Platon lẫn những nhà tư tưởng trước Socrate. Đó chính là điều tôi thảo luận ở đây.
Ngay từ luận án phụ đề xuất về “ư niệm diễn ngữ trong triết học Spinoza” và xuất bản dưới nhan đề Spinoza et le problème de l'expression Deleuze đă xét mối liên hệ luận lư giữa nội tại và diễn ngữ về mặt lịch sử phải nói đến truyền thống , khởi sự từ vấn đề tham dự theo Platon. Tham dự có ư nghĩa thông phần, song cũng có nghĩa là mô phỏng, bắt chước, nhận được từ một quỷ thần - như vậy có thể lư giải theo phương cách vật chất, hay theo phương cách mô phỏng, hay theo phương cách quỷ quái. Nhưng cách nào th́ những khó khăn cũng bắt nguồn từ một lư do là nguyên lư tham dự t́m từ phía tác nhân tham dự. Từ góc nh́n của phương cách đầu, nếu tham dự nhằm vào thông phần, th́ khó hiểu làm thế nào cái bị tham dự không trải qua phân chia hay phân cách. Từ góc nh́n mô phỏng, phải có một nghệ nhân ngoại tại lấy Ư niệm làm mẫu. Từ góc nh́n thứ ba, khó thấy đâu là vai tṛ của một trung gian, dầu là nghệ nhân hay quỷ thần, nếu không bắt buộc cái khả xúc tái tạo ra cái khả niệm mà cón phải buộc Ư niệm phải để cho một cái ǵ ngược với bản tính của nó được tham dự.
Trong Différence et Répétition/Khu biệt và Diễn tập Deleuze xác định nhiệm vụ của triết hoc hiện đại là lật đổ chủ nghĩa Platon. Quả thực chủ nghĩa Platon biểu hiện khu biệt phụ thuộc vào quyền lực của Nhất thể, của hữu suy loại, của đồng loại, và cả của phủ định. Ư niệm của Platon ở đây chưa là khái niệm của một đối tượng bắt thế giới phải theo những yêu cầu của biểu tượng, mà chỉ là hiện diện nguyên dă, cho nên chưa liên hệ khu biệt với đồng nhất của khái niệm nói chung, hy vọng t́m ra được một khái niệm thuần túy của chính khu biệt. Cho nên theo Deleuze, biện chứng khu biệt có phuơng pháp riêng của nó, tức là phân chia, song hoạt động không có trung gian, trung từ , mà trực tiếp theo Ư niệm. Deleuze xác định hiểu Platon không theo yêu cầu của Aristote, có nghĩa là phân chia chủng/genre thành những loại/espèces đối lập, mà ư nghĩa và mục đích của phương pháp phân chia theo Platon là chọn giữa những đối nghịch/antibetesis. Deleuze dẫn hai ví dụ trong thiên Politique, nhà chính trị được định nghĩa là người biết “chăm lo mọi người” song nhiều người trong moi giới như thương gia, làm nông, làm bánh cũng tự cho ḿnh “tôi là nhà lănh đạo chính thực”, một ví dụ khác trong thiên Phèdre khi đặt vấn đề xác định cái điên rồ tốt với t́nh yêu đích thực, th́ nhiều người tự cho “tôi là t́nh yêu, là người yêu”. Như vậy vấn đề ở đây không phải về những loại, mà là cân nhắc những đối nghịch và chọn lựa người yêu sách, tức là phân biệt sự vật với ngẫu tượng của nó. Làm thế nào thiết lập khu biệt dựa trên phương pháp phân chia, Platon nại tới huyền thuyết. Deleuze đơn cử huyền thuyết Thần cai trị thế giới và con người trong Politique, hay những linh hồn văng lai trước khi hóa thân mang theo với kư ức về những Ư niệm đặng chiêm ngưỡng trong Phèdre để có thể xác định t́nh nhân, thi sĩ, tu sĩ, bói sĩ, triết gia, ai là người được tuyển chọn tham dự trong hồi ức/άνάμνησίς và chiêm ngưỡng. Huyền thuyết tuần hoàn là diễn tập câu chuyện của một nền tảng mà phân chia đ̣i hỏi làm cơ sở khả dĩ tạo ra khu biệt cũng như ngược lại, nền tảng đ̣i hỏi phân chia là một t́nh trạng khu biệt để có cxơ sở. Deleuze nhận xét phân chia là thống nhất thực của biện chứng và huyền thuyết, của huyền thuyết như thểø nền tảng và lư ngôn/logos như thể lư ngôn chia cắt/logos tomeus. Nền tảng như vậy có một vai tṛ trong quan niệm tham dự của Platon. Trong biện chứng của Platon có bốn dạng: chọn lựa khu biệt, thiết lập ṿng huyền thuyết, xây dựng nền tảng và vị thế của phức hợp vấn đề. Lật đổ chủ nghĩa Platon có nghĩa là phủ nhận ưu thế của nguyên bản với bản sao, của mô h́nh đối với ảnh tượng, ngợi ca ngự trị của giả tượng và phản tư. Phải chăng đó là điểm chung của triết học hiện đại, giữa Heidegger, Deleuze, Foucault, Derrida, Klossowski?
Ở phụ lục tác phẩm Logique du sens, Deleuze luận về giả tượng trong chủ nghĩa Platon và chủ nghĩa duy nhiên qua Lucrèce. Lật đổ chủ nghĩa Platon trong chiều hướng đi t́m duyên cớ nào, có nghĩa là t́m cái động lực của lư luận Ư niệm Platon từ góc nh́n về một ư chí chọn lựa, tạo ra khu biệt, phân biệt chính “sự vật” và những ảnh tượng của nó, bản gốc và bản sao, bản mẫu và giả tượng. Ở đây Deleuze lại đề cập đến phương pháp phân chia như đă dẫn trên, v́ phương pháp này không phải là một phương thức biện chứng trong các phương thức, mà nó thu tập tất cả quyền năng của biện chứng
Để dung hợp nó trong một quyền năng khác, như vậy là biểu hiện cho toàn hệ thống. Ông gọi chủ nghĩa Platon là thiên Odyssée triết lư: biện chứng Platon không phải là một biện chứng của mâu thuẫn, hay tương khắc, mà là biện chứng của đối địch/amphisbetesis, một biện chứng của những đối thủ, tranh đua. Khi luận về thuyết phân chia của Platon, Deleuze chú trọng và đọc những thiên Phèdre, Politique và Sophiste. Ông giải thích không có huyền thuyết cơ bản nào trong thiên Sophiste v́ phương pháp phân chia được dùng một cách nghịch lư , không phải để đánh giá những tranh đua chính đáng mà trái lại nhằm theo dơi kẻ tranh đua giả nhằm xác định hữu của giả tượng. Chính nhà ngụy biện là hữu của giả tượng, mà theo ư hướng này có thể kết cuộc của thiên này mang cuộc phiêu lưu kỳ lạ nhất của chủ nghĩa Platon: dể t́m về phía giả tượng, trong một xát na bùng sáng Platon phát hiện nó không đơn giảnh là một bản sao giả, nhưng đặt ngay chính những khái niệm của bản sao thành vấn đề.
Đến đây khi khởi từ xác định đầu tiên về nguyên cớ của Platon, Deleuze đă đưa ra những đối từ cơ bản thường gặp trong triết học hiện đại như phân biệt bản chất và biểu diện/apparence, khả tri và khả xúc, Ư niệm và ảnh tượng, bản gốc và bản sao, bản mẫu và giả tượng. Tuy nhiên Deleuze nhắc nhở là những biểu ngữ này không có giá trị ngang nhau, mà phân biệt chuyển vị giữa hai loại ảnh tượng: bản sao là những tranh đua có cơ sở, bảo đảm qua sự giống nhau, trong khi giả tượng là những tranh đua giả, do một bất đồng dạng hàm ngụ bại hoại, lệch hướng cơ bản. Cho nên trong thiên Sophiste, Platon phân chia bản sao-h́nh tượng/copies-icônes và ảo giả tượng/simulacres-phantasmes.Toàn bộ duyên cớ của Platon nhằm chọn những tranh tuyể, phân biệt bản sao tốt, xấu và nhị luận Ư niệm với ảnh tượng nhằm đạt tiêu chí cụ thể phân biệt h́nh tượng và giả tượng: bản sao là một ảnh tượng giống c̣n giả tượng là một ảnh tượng không giống.. Giả tượng xây dựng trên sai dị/disparité, khu biệt, nội hướng hoá sự bất đồng dạng. Tóm lại trong giả tượng có một chuyển biến thành cuồng điên, một sinh thành vô giới hạn như miêu tả trong thiên Philèbe “cái hơn, kém nhiều ít cùng tiến tới trước”, một chuyển biến thành cái khác, bại hoạinhững thâm viễn, khéo tránh cái b́nh đẳng, Đồng thể hay Tương thể. Đặt định một giuới hạn cho chuyển biến này, bắt nó thành đồng thể là nhốt nó vào một hang động ở tân cùng Đại dương: theo Deleuze đó là mục tiêu của chủ nghĩa Platon trong ư chí tạo h́nh tượng chiến thắng giả tượng.
Trước khi thẩm định lư giải của Deleuze, như khẩu ngữ: lật đổ chủ nghĩa Platon, tưởng cần nhắc lại lư luận ảnh tượng của Platon xây dựng trên câu chuyện ngụ ngôn hang động mà Platon kể trong thiên Politeia (như Heidegger đă đưa vào giáo tŕnh mùa đông 1931-32: Vom Wesen der Wahrheit. Zu Platos Höhlengleichnis und Theätet/Về bản chất của chân lư, dựa trên ngụ ngôn hang động và thiên Theätet [in trong Heidegger Toàn tập/Gesamtausgabe 34]; xem chương 2 Cơ sở tư tưởng thời quá độ 2007 ĐPQ). Theo Platon, mọi sự vật đuợc xác định do giống với Ư niệm; chẳng hạn mọi cái giường đều giống như trong ảnh tượng của cái giường (l)ư tưởng. Thế giới khả xúc của Platon là thế giới của những bản sao, những ảnh tượng tốt. Điều đó cũng hàm ngụ có những ảnh tượng xấu, tức là những giả tượng, như h́nh ảnh hư cấu trong thơ, bức họa cái giường trong hội họa cũng chỉ là giả tượng, bản sao không chính xác.
Trong tiểu luận dẫn trên, Deleuze viết: mỹ học kham chịu một tính nhị nguyên/đối tính đoạn trường, bi thống/L'esthétique souffre d'une dualité déchirante, bởi một mặt nó chỉ ra lư luận về tính khả xúc như h́nh thái của kinh nghiệm khả hữu, mặt khác nó chỉ ra m65t lư luận về nghệ thuật như phản tư về kinh nghiệm thực, Hai chều hướng này chỉ giao thoa một khi những điều kiện của kinh nghiệm nói chung trở thành những điều kiện của kinh nghiệm thực, tác phẩm nghệ thuật khi đó xuất hiện thực sự như một thực nghiệm/expérimentation.
Người đọc không lấy làm lạ khi Deleuze đặt tiểu luận này vào phụ lục trong tác phẩm Logique du sens/Luận lư về giác của ông, mà nội dung gồm 34 tràng thiên khảo từ Lewis Carroll/nhà văn đến những nhà Khắc kỷ/triết gia, những dăy nghịch lư cổ và hiện đại, sự biến trong trạng thái có nghĩa lư và vô nghĩa v.v...Nếu xét đến lật đổ chủ nghĩa Platon (một thách đố Foucault nói đến Deleuze), khi phủ bác giá trị phán đoán trong luật thuyết ảnh tượng này, Deleuze muốn minh thi những phương thức văn chương chỉ ra những đặc tính của giả tượng, phá đổ những xiềng xích (hẳn hàm ngụ chuyện hang động?), ngoi lên trên mặt, khẳng định quyền năng ảo giả của nó, quyền năng từng bị ức chế. Deleuze cũng nói đến tính hiện đại thông qua quyền năng của giả tượng, thuộc về triết học không phải là mới với mọi giá, cũng không phải là phi thời gian/intemporelle, nhưng là lấy ra từ cái mới một cái ǵ Nietzsche từng chỉ thị là trái mùa/intempestif, thuộc vào tính hiện đại. Ở kết luận của tiểu luận dẫn trên, Deleuze muốn minh thi là có` khu biệt lớn giữa hủy triệt để bảo thủ và duy tŕ trật tự đă lập của những biểu tượng, những khuôn mẫu, những bản sao với hủy triệt những khuông mẫu, bản sao để kiến tạo cái hỗn mang/chaos sáng tạo, làm những giả tượng bước đi và nâng lên một ảo giả - cái vô tư nhất trong mọi hủy triệt, hủy triệt chủ nghĩa Platon.
Cất lên tiếng nói từ chân trời triết học Pháp này, phải kể những bạn đồng hành, như Foucault, Derrida và những người đi trước như Nietzsche, Heidegger.
Cho nên trong Différence et Répétition luận đến nơi trên, Deleuze đă có chú giải về triết học khu biệt của Heidegger, ông phân tích cái Không của Heidegger như trong tiểu luận “Siêu h́nh học là ǵ?” đă gây tiếng vang ở Pháp không hàm chỉ phủ định của Hữu, như Sartre quan niệm như là Hữu như thể khu biệt, khu biệt ở đây không phải “ở giữa” theo nghĩa thông thường của từ này, mà là Nếp gấp/Zwiefalt, một khu biệt hữu thể luận, hiểu theo nghĩa của Deleuze “triết học hỗn đồng với hữu thể luận” v́ từ Parménide đến Heidegger, cùng một âm vọng tạo sự ầm ĩ của hữu.
Vậy, vấn đề chủ nghĩa Platon đối với Heidegger như thế nào?
Khi đề cập đến Krämer của trường phái Tübingen ở trên trong luận cứ đối chiếu tác phảm không viết thành văn (tức là những bài giảng trong trường) với những thiên đối thoại để chỉ ra ánh sáng mới từ những tác phẩm “bí truyền”, những nguyên lư của truyền thống gián tiếp, so với ngày nay nhờ mọi phương tiện thông giao, không c̣n cảnh như vậy nữa. Những bài giảng của Husserl,Heidegger, Barthes, Foucault, Deleuze, Derrida v.v.. được in ấn vào lúc tác giả c̣n sống hay đă chết. Cho nên đọc Heidegger chẳng hạn với Toàn tập/Gesamtausgabe của ông nay đă lên tới con số trên bảy mươi, những giáo tŕnh của những năm 1920s vể dẫn nhập vào nghiên cứu hiện tượng luận, khái niệm cơ bản về triết học Aristote, triết học cổ đại, Kant, Leibniz, Nietzsche, luận lư học, về thiên “Sophistes” của Platon, về Parnénide, Héraclite đến những giáo tŕnh cuối đời, chỉ riêng phần lư giải triết học cổ đạ́ đă khiến người nghiên cứu triết học phải quy tŕnh đọc những nhà tiền Socrate theo/sau Heidegger. Đó là điều tôi sẽ thảo luận sau đây.
Nhưng trước khi bàn đến những nhà tư tưởng trước Socrate, có thể khởi từ giáo tŕnh mùa hạ 1926 về những khái niệm cơ bản của triết học cổ đại/Grundbegriffe der antiken Philosophie Heidegger đă chỉ ra: để thấy sự khu biệt, có thể nói diễn tập khởi đầu triết học đồng hành với khởi sự nhất định tiên khởi của triết học khoa học, đi từ diễn tập lộ tŕnh khai phá hữu đi từ hiện thể: khai phá này là nhiệm vụ triệt để và hó khăn nhất đề ra với nhận thức của con người.
Rơ ràng là tư tưởng hy lạp khởi sự đầu tiên và quyết định là khai phá khu biệt hữu thể luận. Heidegger định nghĩa: hữu thể luận hy lạp là một hữu thể luận về thế giới. Platon đối với ông là nhà triết học, trong khi những nhà tiền Socrate là những nhà tư tưởng. Theo ông với Platon đă thành tựu giai đoạn đầu tiên của tư tưởng hy lạp, mở ra một kỷ nguyên mới cho lịch sử triết học phương tây. Trong Toàn tập/GA 6 ông xác định: ở điểm nh́n người xây dựng nền tảng cho siêu h́nh học, có thể nói toàn bộ triết học tây phương là của chủ nghĩa Platon. Siêu h́nh học, chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa Platon về bản chất cùng là một sự.
(c̣n tiếp)
Đặng Phùng Quân