Đặng Phùng Quân
triết học nào cho thế kỷ 21
14
Tiếp theo từ các kỳ 1 , kỳ 2 , kỳ 3 , kỳ 4, kỳ 5, kỳ 6, kỳ 7, kỳ 8, , kỳ 9, kỳ 10 , kỳ 11, kỳ 12, kỳ 13, kỳ 14, kỳ 15, kỳ 16, kỳ 17, kỳ 18, kỳ 19, kỳ 20, kỳ 21, kỳ 22, kỳ 23, kỳ 24, kỳ 25, kỳ 26, kỳ 27, kỳ 28, kỳ 29, kỳ 30, kỳ 31, kỳ 32, kỳ 33, kỳ 34, kỳ 35, kỳ 36,
3/ thời quá độ (tiếp theo)
Khu
biệt/Zwiespalt như nói ở trên là khái niệm Heidegger
đề cập trong phần luận về chia cách
giữa nghệ thuật/mimesis và chân lư/idea trong chủ
nghĩa Platon ở Toàn
tập/GA 6.1 & GA 6.2
[giáo tŕnh về Nietzsche I (1936-1939) và Nietzsche II (1939-1946)] này.
Ông dẫn thiên Politeia nói
về khu biệt giữa triết học và thơ/παλαιά
μέν τις διαφορά
φιλοσοφιά τε καί
ποίητίκή và nhận xét có một
cách thế cơ bản của phương sách ngự
trị trong tư tưởng Platon, chung quanh vấn
đề chỉ đạo: hiện thể là ǵ? Ở
một chỗ khác, trong Das Ende der Philosophie und die Aufgabe des
Denkens/chung cuộc triết
học và nhiệm vụ tư tưởng (in trong Zur Sache des Denkens), ông xác
định mọi siêu h́nh học, kể cả thực
chứng luận đều nói thứ tiếng của
Platon, mà ngữ cơ bản trong tư tưởng của
Platon để chỉ ra hữu của hiện thể, là είδος,
ίδέα nghĩa là bộ diện/Aussehen của
hiện thể.
Aus-sehen từ ngữ
Đức mà Heidegger dùng để dịch từ Hy lạp
είδος
của Platon thường dùng thay từ ίδέα,
có ư nghĩa gần với động từ ίδείν
có nghĩa là “nh́n/sehen”. Như vậy những ư niệm
trong lư luận của Platon liên hệ với cái nh́n, như
Heidegger lư giải trong giáo tŕnh về Nietzsche GA 6.1: “là cái được tri
giác khi xem xét sự vật trong quan hệ với bộ
diện chúng giữ, coi chúng ra như thế nào, trong quan
hệ bản chất hiện thể/quidditas/ τό
τί έστιν. Cái làm cho cái bàn là cái bàn,
hiện thể bàn, được tri giác không phải do
thị giác của thân thể, nhưng do cái nh́n của linh
hồn: thị kiến này là tri giác về cái ǵ là sự
vật, tri giác ư niệm của nó. Nhưng cũng chính
nhờ cái ánh sáng mà chúng ta biết được cái
khả xúc, sự vật hiện thể như cái bàn, cái phi-khả
giác ở bên trên cái khả giác, Tức là cái siêu khả giác,
chính là bản chất hiện thể, hữu của
hiện thể.” Trong Platons
Lehre von der Wahrheit/Lư luận
chân lư của Platon, ông khai triển bộ diện
biểu hiện trong hai từ hy lạp trên khởi dẫn
từ chuyện ngụ ngôn hang động của Platon:
sự vật dưới ánh sáng của ngày, ngoài hang
động trong huyền thuyết để chỉ
những “ư
niệm”. Theo như Platon, nếu như cái nh́n của con
người không đạt ư niệm, nghĩa là bộ
diện của sự vật, sinh vật, con người,
con số, các thần, th́ con người không thể tri giác
được cái này là nhà, cái kia là cây, cái nọ là
thần. Heidegger minh giải điều đó: “Theo thói thường, con
người nghĩ là thấy ngay cái nhà này, cái cây này, hay
mọi thứ hiện thể đó. Trước tiên và
thường là con người tuyệt không ngờ được
rằng chính nhờ ánh sáng của những “Ư niệm/ư tượng”
mà tất cả cái ǵ họ thấy thông thường là “thực” đó/Gewöhnlich
meint der Mensch, er sehe eben geradehin dieses Haus und jenen Baum und so
jegliches Seiende. Zunächst und zumeist ahnt der Mensch nichts davon, daß er
alles, was ihm da in aller Geläufigkeit für das ”Wirkliche” gilt, immer nur im Lichte von “Ideen”
sieht”. Có thể nói, chủ nghĩa duy tâm Platon cũng chính
là chủ nghĩa duy thực.[Cho nên trong chương 2 Cơ sở tư tưởng
thời quá độ tôi
dùng chữ Ư tương thay chữ Ư niệm khi nói
đến ιδέα của Platon].
Những
ư niệm/ư tượng/(l)ư tưởng của Platon
thực sự độc lập với chúng ta, hiện
diện ở ngoài tinh thần của chúng ta. Chúng không
phải do hành vi biểu hiện của con người
đề đặt ra mà do tự chúng đề
đặt ra cho con người như thể mức đo
lường tư tưởng và hành động của con
người. Nh́n dưới góc cạnh này, chủ nghĩa
Platon rơ ràng đưa ra những đối nghịch:
với trường phái hoài nghi, như Protagoras quan niệm
con người là thước đo lường mọi
sự?, với quan niệm con người là chủ
thể, với trường phái hiện sinh? Ở một
góc cạnh khác, gần với trường phái hiện thực
khoa học, như Roy Bhaskar (trong Plato
Etc.) khi quan niệm thực tại vũ trụ,
những nguyên lư khoa học vẫn tồn tại ở
đó, bất chấp thế giới con người có
thể đă bị hủy diệt?
Trở
lại với lư giải của Heidegger, sau khi phân tích lư
luận nói trên của Platon, ông nhận xét: Đối
với những ǵ Platon quan niệm về είδος
và trong nhiều trường hợp khác yêu cầu về
tư tưởng, việc cho phép chúng ta sử dụng
từ Gestell để
chỉ bản chất kỹ thuật hiện đại
hầu như vô hại.
Trong
đề từ tác phẩm Sein
und Zeit xuất bản lần đầu vào năm 1927
dẫn lời trong thiên Sophistes
của Platon: Denn offenbar seid ihr doch schon lange mit dem vertraut, was
ihr eigentlich meint, wenn ihr den Ausdruck 'seiend'
gebraucht, wir jedoch glaubten es einst zwar zu verstehen, jetzt aber sind wir
in Verlegenheit gekommen - 244a, bản dịch của chính
Heidegger, có nghĩa là “hiển nhiên từ lâu anh đă
biết anh muốn nói ǵ khi sử dụng từ ngữ 'hữu',
tuy chúng ta thường nghĩ là chúng ta hiểu nó, song ngày
nay thực sự khá là lúng túng”. Và ông đặt vấn đề
là không có giải đáp cho câu hỏi về 'hữu/seiend' nên
phải nêu ra vấn đề ư nghĩa của hữu/die
Frage nach dem Sinn von Sein. Quả thực Sein und Zeit đánh dấu bước ngoặt
hữu thể luận, mà khởi sự trước đó
đă giảng dạy trong những giáo tŕnh về thiên Sophistes từ mùa đông
1924-1925 ở Đại học Marburg và khai triển trong
giáo tŕnh về Logik. Die Frage nach
der Wahrheit vào mùa đông 1925-1926.
Có
thể nói giáo tŕnh về Sophistes
của Platon là dài nhất so với những giảng khoa
khác của Heidegger, và đặc biệt giành cho Platon,
đối chiếu với những giáo tŕnh phần
lớn giảng về Aristote. Tuy nhiên ngay ở phần
dẫn nhập Heidegger đă chỉ ra định
hướng tư tưởng trong
điều ông gọi là chuẩn
bị về mặt hiện tượng luận triết
lư và lịch sử-thông diễn luận, mà nguyên tắc cơ bản của thông
diễn luận là đi từ chỗ sáng sang chỗ
tối. Khác với thông thường lư giải triết
học Platon là khởi từ Socrate và các nhà tư
tưởng tiền Socrate đến Platon, ông đề
nghị con đường ngược lại là đi
từ Aristote trở về Platon. Mối liên lạc dẫn
đạo ở đây là triết học Aristote, không
phải phán đoán giá trị về Platon, song là những
điều Aristote chỉ ra việc Platon đă phát
triển cách thế rốt ráo, khoa học, đường
hướng dẫn về những vấn đề trong
thiên Sophistes . Cho nên giáo tŕnh
gồm ba phần: phần dẫn nhập luận về lư
giải của Aristote và biên tập hữu thể luận
của Platon trong việc chinh phục άλήθεία,
phân tích đối tượng và vận động
của epistémè, tèchnè, phronésis và sophia (mà thông thường
gọi là tri thức, kỹ thuật, trí thực tiễn và
minh trí); phần quá độ từ Aristote trở lại lịch
sử với Platon nhằm lĩnh hội / άληδεύειν
trong Đối thoại khoa học, triết học,
biện chứng và biện giải thông qua Aristote
đến Platon; phần chính nghiên cứu hữu thể
luận của Platon xây dựng trên lư giải thiên Sophistes,
chủ yếu luận về logos và nguyên mẫu/άσπαλίευτής.
Xét trong hành trạng sư phạm của Heidegger, những
năm trước đó là lư giải hiện tượng
luận về Aristote trong suốt những học kỳ
mùa hạ 1921-1922, hữu thể luận và luận lư
học Aristote mùa hạ 1922, giáo tŕnh mùa hạ 1924 luận
về khái niệm cơ bản triết học Aristote
chỉ ra điểm nhất quán trong tư tưởng
Heidegger từ hiện tượng luận đến thông
diễn luận, từ Aristote đến Platon.
Heidegger
khẳng định v́ như thể Aristote không có
người kế thừa vĩ đại hơn ông, nên
buộc phải lao vào công tŕnh triết học của ông
để t́m ra đường hướng. Chỉ
dấu đầu tiên là Platon minh giải nhà ngụy
biện để gián tiếp chỉ ra nhà triết
học, v́ chỉ có thể nói cụ thể nhà ngụy
biện như thể phi triết gia nếu thấy ḿnh
trong triết học, trên con đường suy niệm
về hữu của hiện thể. Chính v́ vậy Heidegger
giải thích tại sao phải t́m ở Aristote chỉ cho
biết cái ǵ là hiện thể, nhờ đó thấy
được phương cách tốt để
đặt vấn đề hiện thể và hữu
của nó. Do phân cát biện chứng, có tới bẩy
định nghĩa về nhà ngụy biện, từ ngôn
từ/logos là công cụ của nhà ngụy biện, săn
bắt, thuyết phục buôn bán con người,”có nghĩa logos không
chỉ là phương tiện chinh phục kẻ khác, mà c̣n
là những ǵ nhà ngụy biện tạo ra luân lưu buôn bán…”
đến cá tính cơ bản của έν là τέκνη:
nhà ngụy biện như thể phản luận lư/άντίλογίκός;
nghệ thuật ngụy biện/ τέκνη
σοφίστίκή như thể
sản xuất ra những giả tượng (biểu
hiện cụ thể là khoa mô phỏng, tư kiến),
với nhà ngụy biện hiện thể hiện diện
song về mặt hữu thể luận th́ bất khả
hữu, do đó dự tưởng hữu của cái phi
hiện thể/μή όν.
Trong
tiết hai của phần chính là thảo luận phê phán
những học thuyết về hữu, và khai triển
một khái niệm mới về vô hữu, đối
lập với Parménide. Khác với những quan niệm lư
giải Sophistes của
những người trước, như biện chứng
Hegel hay tri thức luận Kant (biện chứng như
một nghệ thuật tư tưởng h́nh thức,
một nghệ thuật trí năng không liên hệ với
chính sự vật (ohne Sachbezug), Heidegger duyệt xét lại
khái niệm biện chứng, lột bỏ những
lớp chùm lên ư nghĩa nguyên ủy biện chứng Platon,
phương pháp mà ông phát triển trong tác phẩm chính
của ông Sein und Zeit là
hủy triệt/Destruktion, bắt nguồn từ ngữ La
tinh de-struere/lột bỏ từng lớp.
Đến
đây, người ta có thể thấy rơ mối liền
lạc giữa phần dẫn nhập và phần chính trong
lư giải thiên Sophistes của
Heidegger, từ quan niệm thông diễn luận có quy
tắc là đi từ chỗ sáng sang chỗ tối, từ
thông qua diễn ngôn (ư nghĩa của δία-λεκτική):
phép biện chứng là công việc của nhà triết
học mà ông nêu ra trong quan niệm của Platon (khoa học
biện chứng chỉ khả hữu nếu triết lư một
cách thuần túy và nghiêm xác/ καδαρώς
τε καί
δικαίως); nhà ngụy biện ẩn nấp trong cái mờ
tối của phi hữu, trong khi nhà triết học hoàn
toàn hướng về hiện thể, ở nơi ánh sáng;
chính qua Aristote để khởi sự lĩnh hội khái
niệm nguyên ủy biện chứng của Platon, như
ông dẫn lời mở đầu chương 3, quyển
VI Nikomachische Ethik: linh
hồn khai mở sự vật qua khẳng định hay
phủ định/ άληδεύεί
ή
ψυκή τώ
καταφάυαι
ήάποφάυαι.
Trong
phân cát biện chứng, nhà ngụy biện khu biệt
với nhà triết học ở chỗ nói điều ǵ
sai/ ψευδή λέγειν
với điều nói sai/λόγος
ψευδής; nhà ngụy biện như nói
ở nơi trên qua ngôn từ có quyền năng với
mọi ngựi, nhất là đám thanh niên, nắm họ
trong tay và thủ lợi; nghệ thuật ngôn từ
ngụy biện không chỉ ở nh́n thấy giống/ είκαστική
mà diễn ngôn ngụy biện thuộc loại làm cho
giống/ φανταστική. Nói
điều sai là cư xử cơ bản của nhà
ngụy biện; cái sai ở đây không phải là hiện
thể mà nhà ngụy biện muốn nói, sai không là hiện
thể, nhưng là một phi hiện thể. Chinh v́ thế
phải đặt lại học thuyết của Parménide,
khi chủ trương chỉ hiện thể (là) hiện
hữu, cái phi hiện thể không (là) hiện hữu.
Đó là nội dung của chương hai, tiết hai
của phần chính tranh biện những học thuyết
cổ và hiện đại về hiện thể/όν
(xem: Platon: “Sophistes”, cổ
đại [440-463] và hiện đại [463-485] GA 19).
Những tranh luận này diễn ra trong hành tŕnh lịch
sử, từ những triết gia thuộc trường
phái tự nhiên/Naturphilosophen, trường phái Elée/Eleaten,
Megare/Megariker, Heraklit, Empedokles thời cổ đại,
chung quanh quan niệm tất cả là Nhất thể, hay Nhất
thể và Phức thể đến những triết gia
hiện đại, duy vật như Vogt, Moleschott, Büchner.
Tranh biện gợi ư cho toàn cảnh nội dung Sein und Zeit trong đề
từ “anh muốn nói ǵ khi sử dụng từ ngữ
'hữu'/ τί ποτε
βούλεσθε
σημαίνειν
όπόταν όν
φθέγγησθε”.
Ingeborg
Schüssler ở Đại học
Vào
thời kỳ Heidegger trẻ này, phương thức
hủy triệt/Ab-bau về khái niệm luận lư h́nh
thức của biện chứng, với trở về
với Aristote hỗ trợ, đă phát hiện ra λόγος
theo nghĩa nguyên ủy của Plato có khai mở/ ά-ληθεύ
sự vật như chính chúng Như vậy tư tưởng
hy lạp ở khởi đầu có chiều hướng
chủ yếu là “chân lư”.
Trong
chiều hướng này xuất hiện hiện
tượng ψευδή έλέγειν cũng
như ψεύδος với những biến
đổi như ειδολον,
εικον,
Φαντασμα, δοξα,
ψευδής δοξα là chiều hướng
của 'quên lăng' thuộc lănh vực những hiện
tượng ẩn tàng và che giấu, mà trước Platon
đă xuất hiện trong thơ Parménide, chiều kích
của đêm phi-hữu toàn diện/ούκ
όν.
Trong
thiên Sophistes, logos có giả
định cơ bản trong trật tự a-lηθεύειν
là δύναμις κοινωνίας/khả
năng đồng hiện hữu [xem: Heidegger, Platon: Sophistes,§69]. Khi xét tổng quát hơn, có
thể nhận thấy ngôn ngữ con người dựa
trên một nền tảng, khác biệt và có trước nó:
đó là dunamis koinonias này, nghĩa là hữu của cái ǵ
hiện hữu. cho nên có khả năng của một
tư tưởng luận đến quan hệ giữa
ngôn ngữ và hữu chứa đựng trong khái niệm
dunamis koinonia này.
Khái
niệm dunamis koinonia như nền tảng của logos có do
lai là hữu, hiểu như tập hợp của thế
giới; mặt khác Heidegger c̣n nhấn mạnh đến
khái niệm dunamis koinonia, như giả định cơ
bản cho biện chứng của logos có do lai là hiện
tượng thế giới xác định bởi thời
gian. Có thể nói, những khai phá này là dự bị cho
một đề cương sau này, chính là Sein und Zeit.
Cho
nên trong khi luận về thiên Sophistes,
về vấn đề logos và những căn rễ
luận lư học của tư tưởng hy lạp,
Heidegger cũng đối chiếu với thời hiện
đại, nêu ra những phê phán chung quanh vấn đề
triết học trong quan hệ với khoa học và thế
giới quan. Ông ghi nhận: đừng tưởng
rằng ngày nay chúng ta đă thành tựu thêm một
bước trong lănh hội vấn đề hiểu
biết được thế nào là triết học; trái
lại chúng ta phải nhận ra trong lúc này, với sự
xâm nhập của những xu hướng dị dạng,
với ảnh hưởng của những vấn
đề ngoài triết học, vấn tính này phương
chi cũng như những giải đáp thích đáng
vẫn c̣n nhiều khó khăn.
Sau
khi tổng kết những xu hướng ”triết học khoa
học”, ảnh hưởng nhất định của
chủ nghĩa Cơ đốc, triết học cổ
điển hy lạp bị cải tác đặc biệt
để thỏa măn những yêu cầu do thế giới
quan (trong quan hệ với chủ nghĩa Cơ
đốc, triết học không những chỉ là một
thế giới quan/Weltanschauung như bất kỳ hiện
tượng nào khác, nó c̣n được đánh giá như
một sáng tạo tinh thần đặc thù. Kết
quả là ư tưởng nghiên cứu đă hoàn toàn bị bóp
nghẹn bởi những xu hướng tinh thần
tổng quát hơn. Theo Heidegger, khả năng của
một nghiên cứu chân chính và một cách đặt
vấn đề nghiêm xác đ̣i hỏi một tư thái
ông gọi là tự do hiểu rơ sự vật/die
Freiheit der Sachlichkeit. Trong viễn tượng đó, có
thể ngược ḍng lịch sử để xét Heidegger
trong quan hệ Hữu, Logos và cách đọc những nhà
tư tưởng tiền Socrate.
(c̣n tiếp)
Đặng Phùng Quân