Đặng Phùng Quân
triết học nào cho thế
kỷ 21
3
2/ những bước ngoặt ở cuối-thế-kỷ (tiếp theo)
Tiếp theo từ các kỳ 1 , kỳ 2 , kỳ 3 , kỳ 4, kỳ 5, kỳ 6, kỳ 7, kỳ 8, , kỳ 9, kỳ 10 , kỳ 11, kỳ 12, kỳ 13, kỳ 14, kỳ 15, kỳ 16, kỳ 17, kỳ 18, kỳ 19, kỳ 20, kỳ 21, kỳ 22, kỳ 23, kỳ 24, kỳ 25, kỳ 26, kỳ 27, kỳ 28, kỳ 29, kỳ 30, kỳ 31, kỳ 32, kỳ 33, kỳ 34, kỳ 35, kỳ 36,
Như đă nói nơi trên, vận động tư tưởng ở nửa cuối thế kỷ 20 đánh dấu qua những bước ngoặt:
a. trước hết là bước ngoặt ngữ học chỉ ra những vấn nạn triết học là những vấn đề về ngôn ngữ; nói như vậy có nghĩa là người ta không đi t́m ở những triết gia như Descartes, Kant hay Hegel với những tranh luận không ngừng về cùng những vấn đề mà phát hiện ra ở một truyền thống khác mệnh danh là “truyền thống Hamann-Herder-Humboldt” (như lối nói của Charles Taylor, nhà triết học Gia nă đại trong vùng triết học Anh-Mỹ). Truyền thống này được tiếp thu và khai triển sâu xa ở giai đoạn II trong hành trạng tư tưởng Heidegger, mở đầu một định hướng tư tưởng vào thời kỳ này là thông diễn luận nơi Gadamer với Chân lư và Phương pháp/Wahrheit und Methode, xuất bản năm 1960, cùng thời điểm với cao trào cấu trúc luận.
b. bước ngoặt ngữ học trong vùng triết học Anh-Mỹ khởi từ một truyền thống khác, từ hai nguồn thực chứng luận lư học Áo và duy nghiệm luận Locke, Hume. Sự khác biệt giữa hai định hướng ngữ học, một đi vào khoa học văn chương, một đi vào khoa học thực nghiệm.
Gustav Bergmann là nhà triết học đầu tiên đă sử dụng từ ngữ “bước ngoặt ngữ học” trong ư nghĩa: mọi triết gia ngữ học nói về thế giới qua những phương tiện nói về một ngôn ngữ thích hợp, đó là bước ngoặt ngữ học, bước đầu cơ bản như đối với phươg pháp, dựa vào ngôn ngữ thông thường và lư tưởng nào mà các triết gia đồng thuận; ông kể ra ba lư do: một là những từ được dùng hoặc thông thường hoặc có tính triết lư, hai là phần đông nghịch lư, phi lư, tối nghĩa của triết học tiền ngữ học bắt nguồn từ chỗ không phân biệt giữa việc nói và nói về việc nói, ba là cách chính đáng nói về những sự việc mà ngôn ngữ có thể là nói về cú pháp và lư giải ngôn ngữ. Wittgenstein chủ trương đưa từ ngữ từ siêu h́nh học về lại theo cách sử dụng hàng ngày. Tranh luận gữa triết học của ngôn ngữ lư tưởng với triết học của ngôn ngữ hàng ngày trong triết học Anh-Mỹ khởi sự từ góc nh́n này.
c. bước ngoặt hủy tạo khởi từ tranh luận giữa triết học và văn chương, trên cơ sở tu từ đă bắt nguồn từ định kiến lâu đời, thường gán cho Platon trong quan niệm triết học đắc thủ những chân lư mà văn chương làm ẩn khuất v́ ngôn ngữ và hư cấu, hủy tạo chính là phản ứng văn chương về tính chính xác triết lư của nó.
Do sự phát triển phương pháp hủy tạo trong nghiên cứu phê b́nh văn học, nhiều nhà triết học thực nghiệm và phân tích xem những tác phẩm của Derrida như chỉ luận về những vấn đề ngoài phạm vi triết học. Song chính tranh căi về triết học ngôn ngữ sau Saussure xác định vị trí hủy tạo trong chiều hướng hậu cấu trúc luận.
Bức tranh toàn cảnh sinh hoạt triết học ở nửa sau thế kỷ 20 bày ra theo lối nói của Foucault như một khán trường triết học/Theatrum Philosophicum: những đặc tính của thời đại này không thấy ở những giai đoạn về trước như lối viết hợp đồng của hai hay nhiều tác giả (chẳng hạn Deleuze và Guattari, Lacoue-Labarthe và Nancy, Renaut và Ferry v.v..), những công tŕnh nghiên cứu chuyên sâu của tác giả xuất xứ từ phương Tây về triết học phương Đông hay ngược lại, mở ra những viễn cảnh mới (người ta có thể thấy một Trang tử, Khổng tử, Vương Phu Chi, Karl Marx như một người đồng thời), ảnh hưởng của triết học, lư luận Pháp/French theory (như lối gọi của người Mỹ) vào khoa học văn chương (bành trướng và biến đổi sinh hoạt trí thức Mỹ châu, chẳng hạn).
Lư giải lẫn nhau là một đặc sắc của tri thức hậu cấu trúc, nói lên trao đổi thông giao hiếm có trong sinh hoạt triết học. Tôi muốn nói đến tranh biện thân hữu, như những nhà triết học vào thời kỳ này viết về nhau, giữa Foucault (1926-1984) và Deleuze (1925-1995).
Michel Foucault đă viết Theatrum Philosophicum trên tạp chí phê b́nh Critique năm 1970 thảo luận về hai tác phẩm chủ đạo của chính tư tưởng Deleuze vừa mới xuất hiện vào năm 1969 Différence et répétition/Khu biệt và diễn tập và Logique du sens/Luận lư của giác. Lời mở đầu của Foucault là một ca ngợi dự báo người bạn triết lư của ḿnh: một ngày kia, thế kỷ này có lẽ sẽ là của Deleuze/un jour ce siècle sera peut-être deleuzien. Tất nhiên, ta không nên coi câu nói này là xưng tụng lẫn nhau, v́ chính Deleuze xác định nhận xét của người bạn là một lời nói đùa, có nghĩa là làm cho những người nào thích họ có dịp cười thích thú và làm cho những người khác giận bầm gan tím mật. Triết học, với những người theo Nietzsche, không nên coi nghiêm trọng. Tám năm sau, Foucault nhắc lại điều đó không ngăn trở việc nh́n nhận Deleuze là một triết gia quan trọng.
Những lư giải của Foucault trong bài viết chỉ ra bước ngoặt ngôn ngữ trên hành trạng tư tưởng diễn ra nơi triết học, không phải tư tưởng, mà trên khán trường của Deleuze, hay của Foucault: một khán trường của kịch điệu bộ với những cảnh tự phát, phù du, phức hợp trong đó những biểu hiện cử chỉ mù ḷa báo hiệu lẫn nhau.
Triết học như một sân khấu th́ đầy cảnh tượng hoạt náo, như Foucault mô tả ở đó tiếng cười nổ ra từ những nhà quiû biện xé toạc mặt nạ của Socrate, những phương pháp của Spinoza dẫn về một điệu nhẩy man dă trong ṿng tâm lệch trong khi bản thể xoay quanh nó như một hành tinh điên rồ, một Fichte khập khiễng công bố “cái Tôi rạn nứt ? cái ngă phân hủy”, một Leibniz đă leo tới đỉnh kim tự tháp, có thể nh́n xuyên suốt màn đêm thấy nhạc trời thực sự là một bản ca chu tŕnh của Schoenberg gọi tên Pierrot lunaire, một Duns Scotus tḥ đầu qua ṿm cửa sổ trong cḥi gác Công viên Lục xâm bảo, để ria mép đầy ấn tượng, vốn thuộc về Nietzsche (chân dung Nietzsche luôn luôn họa một người có bộ ria xồm), hóa trang như thể Klossowski.
Bút pháp triết học từ Deleuze hay Derrida đă biến đổi truyền thống nghị luận, như Logique du sens, 1969 của Deleuze, hay Glas, 1974 của Derrida (sẽ nói đến ở sau). Cho nên Foucault ví Logique du sens có thểø đọc như một quyển sách lạ lẫm nhất có thể tưởng được so với Phénoménologie de la perception, 1945 của Merleau-Ponty. Trong tác phẩm của Merleau-Ponty, cơ chế thân thể ràng buộc với thế giới qua một mạng lưới những ư nghĩa cơ bản, phát sinh từ tri giác sự vật, trong khi theo Deleuze, những ảo tượng h́nh thành mặt bằng những cơ thể không thể xuyên thủng và vô thể. Tác phẩm của Deleuze là một khảo luận siêu h́nh, không hiểu theo nghĩa siêu h́nh học lăng quên hữu thể, nhưng nói về ngoại hữu, diễn ngôn về những sự vật vô thể, như ảo tượng, ngẫu tượng, giả tượng.
Logique du sens viết dưới dạng (toán học) ba mươi bốn chuỗi/cấp số nói về những nghịch lư, về chuyển biến thuần túy, khởi từ phạm trù sự biến (như Deleuze xác định khai phá bản tính của sự biến trong mọi sách của ông), những nghịch lư nơi Lacan, Lévi-Strauss, và t́m ra từ tiểu thuyết Alice và Through the Looking-Glass của Lewis Carroll, nghịch lư là khẳng định cùng lúc hai nghĩa, hai chiều hướng. Deleuze gọi quyển sách này của ông là một thử nghiệm tiểu thuyết luận lư và phân tâm học.
Sự biến và ảo tượng, những vấn đề mà theo Deleuze và Foucault triết học đă xao nhăng từ nhiều thế kỷ, chính là đối tượng trong cuộc thử nghiệm của Deleuze. Cũng như Heidegger, và trước đó là Nietzsche, với Deleuze và Foucault, triết học đến kỳ cùng đều toan tính quay lại hay lật nhào chủ nghĩa Platon, v́ như Heidegger có nói rơ siêu h́nh học (phương tây) từ đầu đến cuối là chủ nghĩa Platon. Lật ngược chủ nghĩa Platon, hay chống-Platon, có phải là khởi đầu với Aristote, hay với những Quỉ biện gia, hay với những nhà Khắc kỷ? Khoa ảo tượng luận Platon có phải nhằm phân biệt cái giả/vờ vịt với cái công chính/không pha trộn, không phải từ phát hiện luật chân giả nhưng t́m một khuôn mẫu sao cho với hiện diện của nó, cái phù phiếm giả tạo chỉ c̣n là vô hiện hữu. Deleuze không t́m cái độc đáo trong sự đối lập giữa bản chất và ảo hiện nơi Platon, hay một thế giới cao hơn trần gian này, như mặt trời chân lư với bóng tối hang động, mà ở vận động trước khi phát hiện bản chất, v́ nó đ̣i hỏi thế giới của bản chất trong sự phân rời những ảo giả với muôn vàn những ảo hiện. Cho nên không phải lật nhào chủ nghĩa Platon bằng cách dựng lại quyền của những ảo hiện, phú cho chúng ư nghĩa và củng cố chúng, hay đưa chúng xích gần lại với những h́nh thái cơ bản: thật vô dụng, v́ chúng chẳng thể vươn lên đứng thẳng, hay trở thành Lư niệm không bao giờ thủ đắc. Chúng ta chỉ có một quần tụ giả nhái và kêu vang ầm ĩ trước cửa. Chỉ có sự biến, nhận ch́m ảo hiện và phá hủy hôn ước với bản chất, vô thể phát tán tỷ trọng vật chất, một cố chấp phi thời gian phả hủy cái ṿng bắt chước vĩnh cửu, một dị dạng khó xuyên thủng tự tước đoạt cái lây lan của chính bằng qua thuần khiết, cái giống thực sự của ngẫu tượng củng cố tính giả của ảo hiện giả. Nhà quỉ biện chồi lên, thách đố Socrate chứng tỏ y không là người soán đoạt phi pháp. Lũng đoạn Platon là đứng về phía những người quỉ biện khinh thị, những người khuyển sĩ thô bạo, những người khắc kỷ lư sự, những người khoái lạc viễn quan lăng đăng. Deleuze bướcvào lịch sử triết học, viết về những triết gia cho chính triết học của ḿnh. Ông không chỉ viết những tiểu lục về Hume, Bergson, Spinoza, Kant, Nietzsche mà c̣n khai phá tự Epicure, khắc kỷ, Zénon, Lucrèce, Chrysippus, và đọc Diogène Laërce, Lewis Carroll, Nietzsche, Proust.
Đọc Nietzsche để khai thác phương pháp đạt tới một điểm sâu hiểm ở đó cùng một sự vật là dật sự của đời và cách ngôn tư tưởng; đọc Diogène Laërce trong những trang hay nhất như thể ông linh cảm phương pháp này trong những cách ngôn sinh động cũng là những dật sử của tư tưởng - hành tích triết gia; ở Marcel Proust dự tưởng triết học cấu thành phương pháp từ một điểm nh́n nhất định, đi t́m chân lư có thể dễ nhất và tự nhiên nhất, chỉ cần quyết định vượt lên những ảnh hưởng bên ngoài làm tinh thần sao lăng khỏi thiên chức khiến lấy giả làm thực; đọc Lewis Carroll theo bước vận hành của nhà quỉ biện và biện sĩ lấy hoạt kê như một vũ khí triết lư chống lại phản chứng Socrate, với nhà khắc kỷ hoạt kê như một biện chứng, mà ông lấy đó thực hành trong tác phẩm của ḿnh những sự biến trong khu biệt với những hữu và sự vật. Tái phát kiến khắc kỷ, như tôi đề cập trong Chân dung triết gia, 1973, hướng đi mới của tư tưởng mang ư nghĩa: không có chiều sâu, cũng chẳng có chiều cao; Deleuze nói về ba h́nh tượng triết gia, Apllon trên cao, Dionysos dưới vực và Hercule tọa thị trên mặt đất liền. Sự nghiệp của Hercule/nhân vật khắc kỷ là sự nghiệp ở đời.
Trong lời Tựa tập Différence et répétition, Deleuze xác định lịch sử triết học chính là tái sinh triết học; trong lịch sử triết học tường tŕnh hành động như một phó bản thực sự và đem theo biến đổi tối đa riêng cho phó bản (cứ tưởng tượng một Hegel râu xồm về mặt triết lư, một Marx nhẵn nhụi về mặt triết lư chẳng khác nào như một nàng Joconde để ria). Có thể kể một quyển sách triết học quá khứ xem như một quyển sách tưởng tượng, giả đ̣.
Cũng như Michel Foucault, Gilles Deleuze đă viết nhiều về người bạn quen biết vào khoảng năm1962, khi Foucault vừa hoàn tất hai tác phẩm Raymond Roussel và Naissance de la clinique. Quyển sách Deleuze sưu tập lại những bài viết hầu như suốt hành trạng tư tưởng Foucault từ L'archéologie du savoir đến Histoire de la sexualité thành quyển sách mang tên Foucault, 1986 sau khi ông này mất. Ông mệnh danh Foucault là một nhà quản thủ văn khố, một người vẽ đồ bản, một nhà tư tưởng lớn mà tư tưởng luôn xảy ra những khủng hoảng, dao động như một điều kiện cho sáng tạo, một điều kiện có mạch lạc tận cùng. Theo Deleuze, người ta có thể tạo chân dung một tư tưởng như thể tạo chân dung một con người, chính v́ thế ông muốn phác họa một chân dung triết học của Foucault - đam mê, bạo động, tư tưởng của Foucault đối với ông ta như một bộ máy chiến tranh. Foucault khởi sự tác phẩm lớn đầu tiên là Histoire de la folie à l'âge classique, 1961 song vấn đề điên cuồng thực sự đă trải suốt tác phẩm của ông, thay v́ kinh nghiệm hiện tượng luận, ông chọn một tri thức luận, ở đó điên cuồng được nhận biết qua một “tri thức” khác biệt tùy thuộc vào h́nh thành lịch sử. Tư tưởng về điên cuồng không phải là một kinh nghiệm về điên cuồng, nhưng về tư tưởng, nó chỉ trở nên điên cuồng trong suy sụp. Deleuze dẫn lời Leibniz (được nhắc lại trong tácphẩm viết chung với Guattari sau này Qu'est-ce que la philosophie? 1991) trong một tuyên ngôn tuyệt vời: “sau khi đă thiết lập mọi sự, tôi tưởng tới bến, nhưng khi suy niệm về hiệp nhất linh hồn với thân thể, tôi lại cảm thấy như bị thẩy ra giữa biển khơi”, để minh họa tư tưởng Foucault không phải tiến hóa, mà dẫn khởi từ những khủng hoảng. Lịch sử điên cuồng chắc hẳn đă thành tựu từ một khủng hoảng, khai triển một quan niệm tri thức trong Khảo cổ luận tri thức, 1969 là một lư luận về những phát biểu/énoncés, như khởi từ một khủng hoảng mới, cuộc khủng hoảng '68. Từ sự biến này phơi trần mọi quan hệ quyền lực khắp nơi, mang dấu ấn trong tác phẩm Surveiller et punir/kiểm sát và trừng phạt, 1975 chuyển từ tri thức qua quyền lực, dẫn đến La volonté de savoir/Ư chí tri thức, 1976 - lại một khủng hoảng khác, sâu kín hơn như cảm nhận đang vào ngơ cụt. Quả thực Foucault trong tiến tŕnh tiếp diễn lịch sử tính dục, khai phá những h́nh thành lịch sử, song chính là những vấn đề của đời sống, đó là cách thế muốn ra khỏi cuộc khủng hoảng mới này. Như Deleuze nhận xét, luận lư của một tư tưởng, là toàn bộ những khủng hoảng kinh qua. Cho nên Foucault không phải t́m trở về với người hy lạp (trong Lịch sử tính dục 2 L'usage des plaisirs/Quyền sử dụng lạc thú nói đến khoa t́nh dục như nghệ thuật ứng xử qua lại của đàn ông và thiếu niên trong quan hệ yêu đương ở xă hội cổ hy lạp và 3, Le souci de soi/Quan tâm bản thân khởi từ bản văn Yếu quết của những giấc mộng của Artémidore đến những bản văn của Soranus, Rufus d'Ephèse, Musonius, Sénèque, Plutarque, Epictète, Marc Aurèle ở thời Khắc kỷ) mà theo Deleuze, quan tâm đến chúng ta ngày nay, nghĩa là t́m hiểu đâu là cách thế sống, khả năng sống hay tiến tŕnh chủ thể hóa, phong thái tạo ra bản thân, bên ngoài tri thức và quyền năng. Deleuze cũng dẫn lời một nhà tư tưởng đương thời, François Châtelet đưa ra chủ điểm thực dụng của Foucault trong nguyên tắc “quyền năng như thao tác, tri thức như quy tắc”, để nhận xét: những khoa học về con người không tách rời khỏi những quan hệ quyền lực tạo cho chúng khả hữu, và thúc đẩy những tri thức khả dĩ có thể vượt qua ngưỡng cửa tri thức luận hay h́nh thành một nhận thức, chẳng hạn quan hệ kẻ phạm tội-thày rửa tội trong khoa học tính dục, hay những quan hệ trừng giới trong tâm lư học. Ngược lại, những quan hệ lực lượng vẫn mang tính ngoại thi, bất ổn, tiêu thất, hầu như tiềm thế, bất tri nếu như chúng không thực hiện trong những liên hệ h́nh thành hay thành tằng cấu tạo ra những tri thức. Trong Triết học và khoa học (1972) tôi đă tóm lược điểm nh́n trong suốt hành trạng tri thức luận của Foucault xác định những khoa học về con người (trong khuôn khổ con người sống, nói và sản xuất) như vậy thực sự không phải là về vấn đề con người, nhưng phân tích trong chiều hướng của vô thức, quy pháp, quy tắc những toàn bộ mang ư nghĩa khai mở cho ư thức những điều kiện về nội dung và h́nh thức của chúng. Deleuze dường như đă thâu tóm điểm chung của những nhà tư tưởng đương thời cùng chí hướng mở ra một chiều kích mới trong Foucault (1986), đó là đăng quang của một h́nh thái mới, không phải Thượng đế, cũng không phải con người, song người ta có thể kỳ vọng ở đó không tệ hơn hai nhân vật kể trên.
H́nh thái mới ấy chính là siêu nhân nơi “những người theo Nietzsche” (trong một thời khoảng ở Pháp - như lối nói của Vincent Descombes), để phân biệt với những người “không theo Nietzsche” (thật ra, đă có hai cuộc hội luận quốc tế về Nietzsche trong nửa sau thế kỷ này, một vào năm 1964 ở Royaumont, không phải chỉ quy tụ những đại biểu chính của chủ nghĩa theo Nietzsche như Descombes nghĩ, một vào năm 1972 ở Cerisy-la-Salle với nhiều khuôn mặt mới). Derrida nói về Nietzsche trong “một giai đoạn mới của một quá tŕnh lư giải hủy tạo, có nghĩa là khẳng định”, đánh dấu bước ngoặt hủy tạo của thập niên '70. Trong hội luận quốc tế về Nietzsche năm 1972, Derrida đă chọn đề tài Những bút pháp/văn phong của Nietzsche : vấn đề bút pháp theo Derrida luôn luôn là kiểm tra, trọng lượng của một vật nhọn, đôi khi chỉ là của một ng̣i bút sắt, chùy đao, dao găm, nhờ chúng mà chắc chắn người ta có thể tấn công một cách hung bạo cái ǵ mà triết học gọi nó dưới cái tên vật chất hay tử cung, để ấn vào đó một dấu vết, để vào đó một dấu ấn hay một h́nh thể, song cũng để nẩy lại một h́nh thức dọa nạt, giữ không cho lại gần nó, trấn áp nó, đề pḥng nó - rồi gấp xếp hay cuốn lại, trốn chạy, sau những màn che…Nietzsche dùng đủ mọi thứ màn. Bút pháp tiến lên như thể mũi nhọn/éperon (trong tiếng Anh là spur, tiếng Đức cổ là sporo, tiếng Aùi nhĩ lan cổ là spor) chẳng hạn như mũi nhọn ở đầu tàu của một tàu buồm, phần nhô ra xông lên trước, bẻ tan cuộc tấn công chém văng mặt đối phương; cũng để gọi trong tiếng hàng hải là mũi đá rẽ phăng sóng để vào hải cảng. Bút pháp cũng dùng mũi nhọn của nó để bảo vệ chống lại sự dọa nạt khủng cụ, mù quáng và chết người của cái ǵ tự hiện, cho nh́n thấy trong cương ngạnh: hiện diện, nội dung, chính sự vật, ư nghĩa, chân lư - trừ phi đă là vực sâu mất thanh tân trong vén mở khác biệt này. Nhưng, đúng ra vấn đề bút pháp/mũi nhọn chỉ để nói về chủ đề chính, vấn đề đàn bà/ihre Wirkung in die Ferne, như Nietzsche nói: vẻ duyên dáng mănh liệt nhất của người đàn bà/der Zauber und die mächtigste Wirkung der Frauen, chính là cảm thấy có khoảng cách xa (kính nhi viễn chi?)/eine Wirkung in die Ferne, như Derrida dẫn cách dịch của Pierre Klossowski: une opération à distance, và nói theo kiểu các triết gia, đó là một hành động cách xa/actio in distans. Văn tự của Nietzsche đă phỏng theo khoảng xa/Dis-tanz này, một lối văn phong chia cách giữa lời dẫn tiếng La tinh nhái ngôn ngữ triết gia và dấu than, cái gạch treo lửng từ Distanz. Khoảng xa là nhân tố quyền lực quyến rũ của người đàn bà. Quyến rũ, e ấp như mọi hiệu quả khác của tấm màn che, chỉ để nói đời là đàn bà, chân lư là đàn bà, cái chân lư là đàn bà, triết gia tin, tin và giáo điều, vào chân lư cũng như tin vào đàn bà, triết gia chẳng hiểu ǵ hết. Đó là mở đầu Bên kia thiện ác/Jenseits von Gut und Böse của Nietzsche: Giả sử chân lư là đàn bà, liệu người ta có chỗ để ngờ là mọi triết gia, trong trường hợp họ là những kẻ giáo điều, khó hiểu nổi đàn bà?/Vorausgesetzt, daß die Wahrheit ein Weib ist -, wie? Ist der Verdacht nicht gegründet, daß alle Philosophen, sofern sie Dogmatiker waren, sich schlecht auf Weiber verstanden?
Như Derrida đă thông báo ngay từ đầu, lư giải của ông là lư giải hủy tạo - những trưng dẫn Nietzsche qua Le Gai Savoir, Au-delà du bien et du mal, Le crépuscule des idoles… trong tham luận này, hay ở những tác phẩm khác của ông chỉ ra chân lư, những vũ khí của đàn bà như quyến rũ, e thẹn, xé rách tấm mạng đó, những chữ nghĩa đó, là văn tự và khu biệt/l'écriture et la différence, từ người đàn bà-chân lư, đàn bà quên ḿnh như bị thiến hoạn, ông nhắc đến cái quan hệ với sự thiến hoạn đó bị treo lửng, như thuật ngữ épokè/έποχή của hiện tượng luận, cái mô-típ thiến hoạn như trong bản văn của Nietzsche, chính là hướng về ẩn ngữ của phi-hiện diện của chân lư. Derrida dẫn qua những bản văn Le crépuscule des idoles (những khung văn Histoire d'une erreur, Moral als Widernatur) của Nietzsche chỉ ra Cơ đốc giáo là một chủ nghĩa thiến hoạn/Kastratismus , nhổ răng, móc mắt như Nietzsche nói là những hành vi/opérations Cơ đốc, hô hào: il faut tuer les passions/phải tiêu diệt mọi đam mê - nhưng tấn công tận diệt mọi đam mê đến tận gốc, chính là tấn công tận gốc rễ đời sống: thực tiễn của Giáo hội (Cơ đốc) tỏ ra thù nghịch đời sống/lebensfeindlich. Đến đây, qua Nietzsche-Derrida đă tấu cùng một nhịp với những nhà tư tưởng đương thời, như đă chỉ ra nơi trên. Điểm đặc sắc của riêng ông, đó là đánh dấu bước ngoặt hủy tạo. Ngay trong vấn đề đàn bà, thiến hoạn, bi kịch, quên lăng hữu thể, chân lư… Theo Derrida, Nietzsche đă góp phần vào việc giải phóng ngữ thái/signans ra khỏi lệ thuộc vào logos và khái niệm liên hệ đến chân lư hay ngữ ư/signatum tối sơ, như khi Nietzsche viết: phần đông các nhà tư tưởng viết dở là v́ họ không bằng ḷng chỉ thông tri những tư tưởng của họ, mà họ muốn thông tri cả cách tư tưởng về những tư tưởng này/das Denken der Gedanken. Cuộc tranh luận giữa thông diễn luận Gadamer (măi đến năm 60 tuổi, mới xuất bản tác phẩm chính Wahrheit und Methode, 1960) và thuyết hủy tạo Derrida vào năm 1981, như tôi nói đến trong Cơ sở tư tưởng thời quá độ (2007) chỉ ra thông giao tư tưởng qua biên giới, như Jürgen Habermas viết Diễn ngôn triết lư của Hiện đại/Der philosophische Diskurs der Moderne (1985) để đối thoại với Derrida, Bataille, Foucault v.v..; nhiều tác phẩm viết về những nhà tư tưởng hậu cấu trúc như Peter Tepe viết về Lyotard, Derrida, Deleuze, Foucault trong Postmoderne/Poststrukturalismus (1992), tác phẩm nhiều người viết về triết học Derrida trong Einsätze des Denkens (1997) do Hans-Dieter Gondek và Bernhard Waldenfels biên tập, Reflektierte Vernunft (1995) về triết học Foucault của Thomas Schäfer, Macht, Moral, Wissen (1998) của Wolfgang Detel về Foucault và triết học cổ đại v.v..
(c̣n nữa)
Đặng Phùng Quân